Thu điếu là gì, tìm hiểu những thông tin và kiến thức về Thu Điếu
Bài thơ Thu Điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Nam âm thảo (VHv.2381), Quế Sơn thi tập (A.469), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160). Tiêu đề trong Nam âm thảo chép là Mùa thu ngồi mát câu cá, trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Thu dạ điếu đĩnh 秋夜釣艇 (Thuyền câu đêm thu).
Bàn về bài thơ Thu Điếu
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ… Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng vcái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co… tất cả đều thân thương vè nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, êm ả như vậy. Trời sang thu, không khí giá lạnh, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cùng với:
Cành biếc run run chân ý nhi
(Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không có bóng dáng của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần bộc lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không lầm dường như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo Việt Nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đó là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để giải trí, cho nên “ôm” không phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn.
Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, những “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quê chẳng có gì là xa lạ, mùa thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa biểu hiện được cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được cảm tình của độc giả, đã đọc qua một lần thì khó mà quên được.
Tìm hiểu về Nguyễn Khuyến và tác phẩm của ông
Nguyễn Khuyến là một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học Trung đại Việt Nam. Ông được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh mùa thu. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam. Trong đó, Thu điếu có nét đặc sắc riêng, tả cảnh thu ở một không gian thời gian cụ thể. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân.
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy.
Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hoà hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam.
Thu điếu viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển.
Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ao thu”. Từ “lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hoá độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc ao.
Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong trong tận đáy.
Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự tĩnh lặng.
Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao.
Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, ‘tí’, “vàng”, “khẽ”,”vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật. Cảnh được miêu tả trong hai câu thực, mặc dù là động, nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc ao quê nhà.
Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn mở rộng thêm chiều cao, chiều sâu.
Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như có ám ảnh sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh) hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm). Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc màu khách quan đặc trưng cảu trời thu mà có lẽ còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân.
Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “quanh co” uốn lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu luận đậm dặc một màu xanh, màu xanh bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người.
Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người.
Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy.
Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như mất cảm giác về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể xác định rõ hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ngồi trong một chiếc ao rất nhỏ.
Nhà thơ câu cá mà chẳng phải để bắt cá. Câu chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn. Trong lúc câu, thi nhân đã thâu tóm vào lòng những vẻ đẹp tinh diệu của đường nét, màu sắc, hình khối, sự vận động tinh tế, trong sáng của cảnh vật mùa thu. Cảnh thu tuy đẹp mà buồn, buồn vì quá quạnh quẽ, vắng lặng, buồn vì người ngắm cảnh cũng đang chất chứa nỗi niềm thế sự của kẻ sĩ trước cảnh vong quốc mà thân lại nhàn nhã.
Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả được nét đẹp mộc mạc giản dị của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân.
Cảm nhận của em về bức tranh thu trong “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến
Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Nói tới đề tài này trong thơ ca Việt Nam chúng ta có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào hàng kiệt tác, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thư thu. Mỗi bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu đặc sắc, và Câu cá mùa thu được đánh giá là “điển hình hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Cảnh thu trong bài được đón nhận từ nhiều góc độ khác nhau: từ gần đến xa, từ thấp lên cao, từ hẹp đến rộng… Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường thôn xóm… tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật hết sức thanh sơ: ao nhỏ trong veo, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co… sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động. Những đường nét, màu sắc… gợi lên trong tướng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuông trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian… Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đểu rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vận thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.
Cảnh trong Câu cá mùa thu là cảnh đẹp nhưng cũng tĩnh lặng và đượm buồn. Một không gian vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sự vận động cũng có nhưng chỉ là những vận động rất nhẹ, rất khẽ: sóng hớt gợn, lá khẽ đưa mây lơ lửng… âm thanh tiếng cá đớp mồi thì mơ hổ. Những vận động này không làm cho không khí của bức tranh thu trở nên sôi động mà chỉ càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của nó. Mọi cảnh, mọi vật trong bức tranh thu này đều gợi cái tĩnh lặng và đượm buồn. Cái lạnh lẽo, trong veo của nước, cái biếc của sóng, cái xanh ngắt của trời… những trạng thái, màu sắc đó cho thây một sự tĩnh lặng đang bao trùm từ bầu trời cho đến mặt đất. Mọi cái dường như không chuyển động, dường như rơi vào trạng thái im vắng đến tuyệt đối. Cả con người ở đây cũng vậy. Người ngồi câu trong trạng thái tựa gối ôm cần, không câu được cá nhưng dường như vẫn không hề sốt ruột, cái không chi toát lên ở vẻ bề ngoài mà là ở chiều sâu của tâm tư – một tâm tư dường như cũng tĩnh lặng tuyệt đối. Con người và cảnh vật một cách tự nhiên đã hoà nhịp cùng nhau tạo nên linh hồn cho bức tranh thu. Cái tĩnh, cái buồn rõ ràng là trạng thái của cảnh vật ở đây tuy nhiên, đó không phải là cái tĩnh của sự chết lặng, thiếu vắng sức sống, cũng không phải là cái buồn của sự bi luỵ, chán chường. Gắn với cái buồn, cái tĩnh này vẫn là sự trong sáng, thơ mộng và sức sống muôn đời bất diệt của thiên nhiên xứ sở.
Phải gắn bó tha thiết với quê hương, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì Nguyễn Khuyến mới có thể tái hiện một cách tài tình tất cả vẻ đẹp xiết bao bình dị mà nên thơ của mùa thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị đến thế. Thơ thu Việt Nam giàu có, đặc sắc hơn bởi những vần thơ như thế của Nguyễn Khuyến.
Phân tích tìm hiểu bài thơ Thu Điếu, nguyễn Khuyến
Bài thơ Thu Điếu là một bài thơ thu của tác giả Nguyễn Khuyến nằm trong tập thơ thu gồm ba bài Thu Vinh, Thu Điếu và Thu ẩm. Bài thơ Thu Điếu miêu tả vẻ đẹp tĩnh lặng của mùa thu ở vùng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Hãy cùng nhau theo dõi bài viết này ngay nhé!
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
bài thơ thu điếu
Bài thơ Thu Điếu được nguyễn Khuyến sáng tác vào thời gian ông từ quan về sống ở ẩn tại quê nhà năm 1884. Thu Điếu là một bài thơ Nôm miêu tả bức tranh thu tĩnh lặng, nhưng chứa đựng tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với vẻ đẹp của quê hương đất nước.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ miểu tả cảnh sắc mùa thu nơi thôn quê vô cùng mênh mông, mang một nỗi buồn trĩu nặng. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian
Tuy không gian lạnh lẽo là vậy, tĩnh mịch là vậy nhưng Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thơ thực:
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
hai câu thơ miêu tả là sự diễn tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng.
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu là sự miêu tả cảnh vật, tự nhiên: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Mãi đến cuâ thơ kết mới xuất hiện người câu cá. Hình ảnh người câu cá xuất hiện với một tư thế vô cùng nhàn nhã: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến: Tiểu sử và những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ
Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi. Ông sinh ngày 15/02/1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi), tại quê ngoại là làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ở bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu đôi nét về tiểu sử và những tác phẩm của ông để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về nhà thơ này.
Đôi nét tiểu sử về nhà thơ Nguyễn Khuyến
Tiểu sử về nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi. Ông sinh ngày 15/02/1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi), tại quê ngoại là làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của nhà thơ ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ này là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi và mẹ là Bà Trần Thị Thoan. Có thể nói ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Hai bên gia đình đều có truyền thống khoa bảng. Bố ông đỗ 3 khóa tú tài và làm nghề dạy học, mẹ ông nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha mình cho đến năm lên 8 tuổi ông theo gia định về quê nội ở Bình Lục để sinh sống. Nguyễn Khuyến được biết là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864 ông đỗ đầu cử nhân.
Năm sau tức năm 1865, ông thi trượt kỳ thi Hội, nên tu chí ở lại kinh đô học tại Trường Quốc Tử Giám đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa.
Đến năm 1871, ông mới thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Kể từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Vào năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Đến năm 1877, nhà thơ Nguyễn Khuyến được thăng làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm sau đó, ông bị giáng chức và được điều về Huế được giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Năm 1884 Ông cáo quan về quê Yên Đổ và ông qua đời ở đây.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến được biết đến là một vị quan có phẩm chất trong sạch, mặc dù làm quan nhưng ông nổi tiếng là người rất thanh liêm, chính trực. Nhiều những giai thoại kể về đời sống và những gắn bó của ông với nhân dân.
Hoàn cảnh lịch sử thời nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất, nhà tan. Thời gian này, triều đại nhà Nguyễn đang ở giai đoạn lụi tàn. Cơ đồ của nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Ở giai đoạn này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp và đến năm 1882 quân Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội. Vào Năm 1885, thực dân Pháp lại tấn công vào kinh thành Huế. Kinh thành nhà Nguyễn bị thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân đứng lên đấu tranh, phong trào được hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng Phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, nhà thơ Nguyễn Khuyến sống giữa một thời kỳ mà các phong trào đấu tranh yêu nước thời bấy giờ, phần lớn các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị thực dân, đế quốc dập tắt.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến thời gian này cảm thấy bất lực vì không thể làm được gì để có thể thời đổi được thời cuộc lúc bấy giờ nên ông xin cáo quan về ở ẩn.
Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.
Ông là một trong những nhà thờ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, nhưng ông càng đau đớn hơn khi nhìn thấy cảnh đất nước bị dày xéo và cảm thấy day dứt nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế.
“Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.”
Trích: Bài thơ Hoài Cổ – Nguyễn Khuyến
Những tác phẩm nổi bật của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Thu Điếu – Một trong những tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến bao gồm: Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Cẩm Ngữ, Bách Liêu thi văn tập, cùng với đó là nhiều những bài ca, văn tế, hát ả đào và nhiều câu đối truyền miệng.
Trong tác phẩm Quế Sơn thi tập có khoảng hơn 200 bài thơ được viết bằng chữ Hán và hơn 100 bài thơ được viết bằng chữ Nôm với nhiều các thể loại khác nhau.
Trong bộ phận những nhà thơ Nôm thời bấy giờ thì Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là một nhà thơ trữ tình nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của nhà thơ hầu hết được viết là thơ trữ tình. Có thể nói là cả 2 lĩnh vực trên thì nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đều rất thành công.
Những tác phẩm của nhà thơ đã khiến cho người đọc của bao nhiêu thế hệ xúc động và đang phải suy ngẫm. Những câu thơ là những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Chúng ta, nên tự hào vì nên văn học Việt Nam đã có một nhà thơ như thế.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến – Một nhà thơ có đức và có tài, với một lòng yêu nước, thương dân mà không thể giúp được gì ngoài những ngòi bút đau vì dân, khóc vì dân đã giúp cho văn thơ của ông đã đi vào lịch sử và sẽ mãi mãi đi sâu vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ.
Chuyện ít biết về gian nhà hơn 1 thế kỷ của cụ Nguyễn Khuyến
Trải qua hơn 100 năm tuổi, khu nhà gỗ của cụ “Tam nguyên Yên Đổ”, tức nhà thơ Nguyễn Khuyến ở Hà Nam vẫn giữ được vẹn nguyên những kỷ vật quý báu, lối kiến trúc độc đáo từ thời xa xưa. Ngôi nhà gỗ hơn 100 năm tuổi ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương (Bình Lục, Hà Nam) là nơi thờ Nguyễn Khuyến.
Nhà thơ của những áng văn thơ bất hủ
“Tam nguyên Yên Đổ” – Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909. Ban đầu có tên là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo (cha ông đỗ ba khóa tú tài, dạy học), bản thân Nguyễn Khuyến thông minh, chăm học và học giỏi.
Năm 1864, ông đỗ đầu thi Hương (Giải nguyên) ở trường Nam Ðịnh; năm 1871, ông đỗ Hội nguyên và tiếp tục thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Từ đó, người ta gọi ông là “Tam nguyên Yên Ðổ” (tức người đỗ đầu ba kỳ thi làng Yên Đổ).
Nguyễn Khuyến làm quan ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lý Bộ Hộ,… Thời gian ông ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam kỳ và tiến đánh ra miền Bắc. Sống giữa bối cảnh nước mất nhà tan, các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, nhiều kẻ làm tay sai cho thực dân, Nguyễn Khuyến không thể làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin cáo quan về ở ẩn.
Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.
Các sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm; đáng kể hơn hết là “Quế Sơn thi tập” khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán.
Các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến bao gồm: Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Cẩm Ngữ, Bách Liêu thi văn tập, cùng với đó là những bài ca, văn tế, hát ả đào và nhiều câu đối truyền miệng. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung: Bộc bạch tâm sự của mình; viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương – một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, cơ hội lúc bấy giờ…
Chuyện ít biết về gian nhà hơn 1 thế kỷ của cụ Nguyễn Khuyến ảnh 1
“Tam nguyên Yên Đổ” – nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Trong những nhà thơ Nôm thời bấy giờ thì Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là một nhà thơ trữ tình nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của nhà thơ hầu hết được viết là thơ trữ tình. Có thể nói là cả 2 lĩnh vực trên thì nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đều rất thành công.
Những tác phẩm của nhà thơ đã khiến cho người đọc của bao nhiêu thế hệ xúc động và đang phải suy ngẫm. Những câu thơ là những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Thơ của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhiều phẩm chất thơ ca dân gian và bác học, trữ tình và trào phúng.
Điều đó đã khiến cho giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến trở nên đa dạng đan xen hoà trộn với nhiều sắc màu thẩm mỹ. Ông đã gửi nỗi niềm của mình vào trong thơ mong hậu thế hiểu được lòng mình và hy vọng thế hệ sau sẽ làm được những điều ông ấp ủ vì một xã hội tốt đẹp hơn.
Với một lòng yêu nước, thương dân mà không thể giúp được gì ngoài những ngòi bút đau vì dân, khóc vì dân đã giúp cho văn thơ của ông đã đi vào lịch sử và sẽ mãi mãi đi sâu vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ.
Gian nhà độc đáo của bậc thầy phong thủy
Năm 1884, cụ Nguyễn Khuyến có viết: “Vườn Bùi chốn cũ/Bốn mươi năm lại lụ khụ về đây”. Câu thơ này được “Tam nguyên Yên Đổ” viết khi sắp bước sang tuổi “tri thiên mệnh”, cụ cáo bệnh, không nhận chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang) để về với mảnh đất cha ông sống cuộc đời thanh bạch, vui thú điền viên ở vùng quê nghèo chiêm trũng.
Gian nhà của cụ Nguyễn Khuyến nằm ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương (xưa là xã Yên Đổ), huyện Bình Lục, Hà Nam. Để đi tới gian nhà ấy, du khách phải đi qua “ngõ trúc quanh co” trong làng Vị Hạ. Cổng vào nhà cụ Nguyễn Khuyến rêu phong, cổ kính, ở trên ba chữ Nho “Môn Tử Môn”.
Ông Nguyễn Thanh Tùng – hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ Nguyễn Khuyến (sinh năm 1941) phân tích: “Môn Tử Môn” có nghĩa là cửa ra vào của học trò. Đây là một lời răn dạy nghiêm khắc về đạo làm trò. Trước khi vào nhà thầy cho dù là quan lớn hay thứ dân đều phải đúng lễ nghĩa, xuống ngựa, xuống xe đi bộ vào viếng thầy.
“Tam nguyên Yên Đổ” – Nguyễn Khuyến còn là bậc thầy về tài bố trí phong thủy. Bước qua cổng vào cổ kính là ngôi nhà được xây theo phong cách truyền thống xưa kia. Bên ngoài là đại tế, trong là hậu cung. Giữa nhà tế lễ và hậu cung là một khoảng sân nhỏ hình chữ Nhị. Chỉ những người được được sắc phong thần thì mới được xây như thế này.
Chuyện ít biết về gian nhà hơn 1 thế kỷ của cụ Nguyễn Khuyến ảnh 2
Trước cổng nhà có đề chữ: “Môn Tử Môn” có nghĩa là cửa ra vào của học trò.
Theo hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ, Nguyễn Khuyến mệnh hoả nên trấn trạch hai thủy một hỏa để cân bằng âm dương. Hai thủy gồm cái ao lớn có bờ cỏ thẳng ngăn ở giữa rồi đến cái lạch nước trong. Cái ao và lạch giống hình bút lông và nghiên mực của các nhà Nho.
Nhà đại tế có 7 gian, xây bằng gạch, lợp ngói, có bốn hàng cột. Hậu cung được làm bằng gỗ. Nhà của cụ đặc biệt ở chỗ, có lưỡng long chầu nguyệt, 9 bậc đặt ở dưới đất. Bình thường, hình lưỡng long chầu nguyệt hay được đặt ở trên nóc nhà, ông Tùng giới thiệu.
Lý giải về điều này, ông Tùng hồ hởi cho biết, ngày xưa, cụ giải thích với các chức sắc rằng làm vậy để tránh nắng hướng đông và hướng tây. Thế nhưng, lý do ban đầu của cụ lại hoàn toàn khác. “Cụ Nguyễn Khuyến để lưỡng long chầu nguyệt ở dưới đất nhằm ám chỉ vua nhà Nguyễn bán nước nên không cho cưỡi lên đầu rồng, chỉ chầu đằng trước nhà thôi”, ông Tùng thâm thúy nói.
Đi sâu vào hậu cung, chúng tôi có thể dễ dàng nhìn thấy những nghiên bút, sắc phong, câu đối cổ. Đó là cuốn thư của cụ Dương Khuê tặng cụ Nguyễn Khuyến khi cụ đỗ Tam nguyên đầu khoa bảng, tấm biển “Ân tứ vinh quy”, “Nhị giáp tiến sĩ” do Vua Tự Đức ban cho “Tam nguyên Yên Đổ”…
Trước sân của ngôi nhà cổ còn có con lạch nhỏ. Theo lời kể của ông Tùng, cụ Nguyễn Khuyến từ lâu đã tính toán cho đào một con lạch và một cái ao cạnh nhau, điều này giúp cân bằng âm dương, trấn trạch.
Trong khoảng sân vườn rộng, gia đình cụ trồng nhiều loại cây ăn quả như na, vú sữa, bưởi và các loại hoa thơm. Ngoài ra, từ xa xưa, cụ Nguyễn Khuyến đã cho trồng cây vối để lấy lá hãm nước uống.
Bất kỳ du khách nào khi đến tham quan ngôi nhà cổ đều trầm trồ với 3 cây nhãn cổ thụ đã ngoài 100 tuổi, cả ba cây đều xanh tốt quanh năm và được các con cháu cụ Nguyễn Khuyến chăm sóc. Chỉ tay về một cây nhãn cổ ông Tùng cho biết: “Hiện nơi này có 3 cây nhãn cổ thụ. Con trai cụ Nguyễn Khuyến đã xin ba hạt nhãn về trồng sau khi mừng thọ Vua Tự Đức (1829- 1883)”.
Ông Tùng cho hay, các cụ xưa kể lại, trong một lần cụ Nguyễn Khuyến cùng con trai vào kinh mừng thọ Vua Tự Đức, Nhà Vua đã ban cho cụ Nguyễn Khuyến chùm nhãn. Con trai cụ xin Vua Tự Đức ba hạt giống về ươm trồng và được chấp thuận.
Nở nụ cười tươi, ông Tùng tâm sự, việc con trai cụ Nguyễn Khuyến xin ba hạt nhãn về trồng không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là vật quý Vua Tự Đức ban mà các cụ còn có ý nghĩa sâu xa khác. Trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến, danh hiệu học vị tiến sĩ được gọi là bảng nhãn.
Vì vậy con trai cụ Nguyễn Khuyến trồng ba cây nhãn là có ngụ ý muốn con cháu noi theo và tiếp bước truyền thống của dòng họ: “Con trai cụ Nguyễn Khuyến trồng cây nhãn là muốn nhắn nhủ thế hệ sau tiếp bước việc học hành của dòng họ, cố gắng đỗ đạt cao”.
Trong khuôn viên ngôi nhà còn lưu giữ, trưng bày rất nhiều kỷ vật quý hiếm như: Một số bộ triều phục của cụ Nguyễn Khuyến, bức tượng đá tạc hình nhà thơ, câu đối, tấm bia khắc bài thơ “Thu điếu” bằng nhiều thứ tiếng khác nhau…
Gian nhà niên đại hơn thế kỷ ấy đã đón biết bao nhà nghiên cứu, người yêu văn chương, du khách và đặc biệt là những học sinh trên khắp mọi miền Tổ quốc. Họ tới cung kính thắp hương tri ân một nhà thơ có đức và có tài, với một lòng yêu nước, thương dân và chiêm ngưỡng gian nhà độc đáo của mảnh đất hình chữ S.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến, tác giả Thu Điếu: Con người, tư tưởng & sự nghiệp văn học
Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, người ta sẽ hình dung đến ngay bộ ba bài thơ về mùa thu gồm “Thu Vịnh, Thu Ẩm, Thu Điếu”. Hôm nay, hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về tiểu sử và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến trong bài viết sau!
Tam Nguyên Yên Đỗ “Nguyễn Khuyến”: Người tài sinh nhầm thời
Ít người biết rằng tên gọi Nguyễn Khuyến có hàm ý rằng “cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa”. Đây là tên gọi thứ hai, được chính nhà thơ đổi sau này trong thời gian ông đang theo học tại trường Quốc Tử Giám, sau khi trượt kỳ thi Hội.
Nhà thơ nguyễn khuyến
Tên thật của nhà thơ Nguyễn Khuyến là Nguyễn Thắng. Ông được sinh ra tại quê ngoại tại làng Văn Khê, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam (nay thuộc tỉnh Nam Định). Quê nội Nguyễn Khuyến thuộc làng Vị Hạ, Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam).
Nguyễn Khuyến sinh ra trong một gia đình nhà nho Nghèo. Cha ông là cụ Nguyễn Tông Khởi, từng đậu 3 khóa tú tài, làm nghề dạy học. Mẹ ông là cụ Trần Thị Thoan, con gái của Trần Công Trạc cũng từng đỗ tú tài dưới thời Lê Mạc.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người thông minh, ham học. Năm 17 tuổi, Nguyễn Khuyến lấy vợ và tham dự kỳ thi Hương cùng cha nhưng bị trượt. Sau đó thì cha ông lâm bệnh và qua đời. Hoàn cảnh cơ cực đã buộc Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống, nuôi mẹ. Sau có cụ nghè Vũ Văn Lý người vì thương tình cảnh của chàng nho sinh nghèo Nguyễn Khuyến mà cưu mang và cho tiếp tục ăn học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu kỳ thi Hương. Một năm sau ông vào kinh để thi hội nhưng không đậu nên quyết định đổi tên của mình từ Thắng thành Khuyến với ý động viên, khuyến khích mình cần cố gắng hơn. Song song với đó, Nguyễn Khuyến vào Huế rồi theo học tại trường Quốc Tử Giám. Sau sáu năm dùi mài kinh sử (1871), Nguyễn Khuyến thi lại lần hai thì đỗ cả Hội nguyên lẫn Đình Nguyên. Vì đỗ đầu cả ba kỳ thi nên Nguyễn Khuyến được vua Tự Đức ban cho cờ biểu và hai chữ Tam Nguyên. Về sau, người đời mới gọi ông là Tam nguyên Yên Đỗ (tức: người đỗ đứng đầu của ba kỳ thi của làng Yên Đỗ).
Nguyễn Khuyến ra làm quan tổng cộng là hơn 10 năm. Ông từng làm trong nội các ở Huế, Đốc học tại Thanh Hóa, Án Sát tại Nghệ An, Bố chính tại Quảng Ngãi… dù ở chức vụ nào ông cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực.
Là người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho học nên Nguyễn Khuyến luôn mong muốn nếu làm quan sẽ thực hiện giấc mộng trị quốc bình thiên hạ. Thế nhưng thời cuộc đã không cho ông làm được điều đó.
Mang tiếng làm quan nhưng lại trong giai đoạn triều Nguyễn ở giai đoạn lụi tàn, thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ rồi tiến đánh Hà Nội và tấn công kinh thành Huế (1885). Triều đình nhà Nguyễn thất thủ và ký hàng ước Quý Mùi (1883), phong trào Cần Vương kêu gọi nhân dân đấu tranh nhưng bị đập tan dưới tay thực dân. Giữa thời nước mất, nhà tan mà không thể làm được gì đã khiến Nguyễn Khuyến rất đau đớn, chua xót. Vì vậy, ông cáo quan về quê nhà ở ẩn.
Trong bối cảnh thực dân Pháp hoành hành, Nguyễn Khuyến vẫn giữ một lòng yêu nước, không hợp tác với giặc. Nguyễn Khuyến sống một cuộc đời trong sạch, không tư lợi cho đến cuối đời.
Sự nghiệp văn học của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Khuyến được xem là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu giữa thời cuộc loạn lạc nước mất nhà tan. Nhận định này xuất phát từ chính cốt cách và thái độ sống của ông: Yêu nước trước sau như một, đau với nỗi đau của nhân dân, buồn với nỗi buồn của nhân dân, day dứt trước cảnh đất nước bị thực dân dày xéo, chà đạp… Những tư tưởng này đã được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của Nguyễn Khuyến để lại cho nhân thế.
Nhà thơ nguyễn khuyến
Kho tàng tác phẩm văn học Nguyễn Khuyến để lại hiện thống kê còn khoảng hơn 400 bài gồm nhiều thể loại từ thơ, văn cho đến câu đối, văn tế… Trong đó, các tác phẩm tiêu biểu nhất phải kể đến là Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Bách liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ.
Riêng Quế Sơn thi tập đã bao gồm hơn 200 bài thơ được viết bằng chữ Hán và hơn 100 bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thể thơ sử dụng vô cùng đa dạng. Dù viết thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm thì Nguyễn Khuyến đều rất thành công.
Tư tưởng trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến
Các tác phẩm của Nguyễn Khuyến đều xoay quanh 3 chủ đề chính là: Tâm sự, bộc bạch của chính nhà thơ; Con người, cuộc sống và cảnh vật ở làng quê vùng chiêm trũng Bắc Bộ; Tỏ thái độ khinh bỉ, chế giễu những kẻ tham lam, ích kỷ, thừa nước đục thả câu giữa cảnh nước mất nhà tan.
Tâm sự, bộc bạch của Nguyễn Khuyến
Phần lớn các sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến được viết sau khi ông từ quan về quê ở ẩn. Vì thế, trong nhiều tác phẩm người ta thấy cái buồn trong thơ ông. Đó là nỗi buồn không thể thực hiện nghĩa vụ trí quân trạch dân
“Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời”
(Di chúc)
Đó cũng là nỗi buồn khi thấy bọn cơ hội tiếp tay cho giặc để bán nước cầu vinh. Nỗi buồn này được Nguyễn Khuyến gửi vào tiếng cuốc kêu
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.
(Quốc kêu cảm hứng)
Trong thơ Nguyễn Khuyến, người ta cũng thấy ông tự cười mình, tự chế giễu sự bất lực của bản thân trước thời cuộc bằng những câu thơ rất chua chát:
“ Bỏ chức há không bạn bè ở lại
Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?”
(Cảm tác)
Con người, cảnh vật và cuộc sống ở làng quê vùng chiêm trũng Bắc Bộ
Tuổi thơ nghèo khó, gắn bó với đời sống thôn quê từ những ngày thơ bé nên hơn ai hết Nguyễn Khuyến hiểu và thấm được nỗi cơ cực vất vả của người dân nghèo sống nơi miền đồng chiêm trũng.
Nhà thơ nguyễn khuyến
Sau khi từ quan về quê, ông sống một cuộc đời như một lão nông thực thụ, chan hòa tình thân với mọi người ở thôn quê. Đây chính là lý do vì sao trong rất nhiều bài thơ của Nguyễn Khuyến người ta bắt gặp hình ảnh người nông dân nghèo lam lũ, cực khổ, túng thiếu quanh năm:
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa, trầu cau chẳng dám mua”.
(Chốn quê)
Đó là nỗi lo của người nông dân trước mỗi mùa lụt lội:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”
(Chốn quê)
Hay
“Dở trời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”
(Chợ Đồng)
Hay
“Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”
(Nước lụt Hà Nam)
Người ta thường ví Nguyễn Khuyến là một nhà thơ của nông thôn thật chẳng sai. Bởi lẽ, khó có một ai đưa cảnh thôn quê vào thơ có hồn như ông:
“Chuông trưa vẳng tiếng người không biết
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Hay
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”.
(Thu ẩm)
Chế giễu, đả kích thói hư tật xấu của những kẻ tham lam, ích kỷ, tư lợi
Vốn là người ngay thẳng, chính trực nên khi nhìn thấy cảnh những kẻ làm quan mà tham lam, chỉ nghĩ sao tư lợi cho mình thật nhiều, Nguyễn Khuyến đã dùng thơ văn để thể hiện sự khinh bỉ, mỉa mai:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!”
(Tiến Sĩ Giấy)
Hay
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?”
(Ông Phỗng đá)
Ngòi bút Nguyễn Khuyến chua xót khi châm biếm, đả kích thói lố lăng, rởm đời mà bọn thực dân vẽ ra
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thể bao nhiêu, nhục bấy nhiêu”
(Hội Tây)
Có thể thấy, dù là ở mảng đề tài nào ta cũng thấy ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến được sử dụng rất sinh động, giản dị nhưng cũng không kém phần tinh tế. Ngoài ra, Nguyễn Khuyến cũng cực kỳ thành công trong ứng dụng bút pháp nghệ thuật, sử dụng điển tích điển cố từ ca dao tục ngữ trong các tác phẩm của mình.
Đọc, tìm hiểu, suy ngẫm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Khuyến, ta càng thấy trân quý ông – một nhà thơ có tài, có đức với tấm lòng yêu nước, thương dân vô hạn.