SẢN XUẤT, PRODUCTION (PRODUCE) LÀ GÌ? Tìm hiểu sâu và rõ nét về sản xuất

Sản xuất (PRODUCTION hay PRODUCE) là các hoạt động và quá trình của con người trong việc tạo ra của cải xã hội, bao gồm việc tạo ra của cải vật chất, của cải tinh thần, sản xuất còn được gọi là sản xuất xã hội. Sản xuất theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các hoạt động và quá trình tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ.

Sản xuất (PRODUCTION) là hoạt động hay quá trình tạo ra (chế tạo) những của cải, sản phẩm, dịch vụ (hàng hóa) nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người/tổ chức (như cơ quan, doanh nghiệp, quốc gia…).

SẢN XUẤT, PRODUCTION (PRODUCE) LÀ GÌ - TÌM HIỂU VỀ SẢN XUẤT PRODUCTION

Trong chủ đề này, Lương sẽ cùng bạn và các nhà sáng lập tìm hiểu kỹ lưỡng về Sản xuất PRODUCTION (PRODUCE). Nếu bạn có những câu hỏi liên quan hoặc về các Mô hình khởi nghiệp kiếm tiền, kinh doanh, bạn có thể gửi inbox cho Lương theo phần Liên hệ trên thanh Menu của Taytou.com

Sản xuất là quá trình chuyển hóa các nguồn lực, tài nguyên thành của cải vật, của cải tinh thần, hàng hóa, dịch vụ để cung cấp, đáp ứng các nhu cầu của như nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu gia công, nhu cầu sản xuất của các chủ thể khác…

Sản xuất là quá trình chuyển hóa từ đầu vào sang đầu ra thông qua việc dùng các nguồn lực một cách hợp lý để đạt được những mục tiêu của con người hay tổ chức, quốc gia.

Trong tiếng Anh, Sản xuất là PRODUCTION (danh từ) hay PRODUCE (động từ). Trong tiếng Trung thì Sản xuất là生产.

ĐI ĐẾN NỘI DUNG BẠN MUỐN XEM

SẢN XUẤT (PRODUCTION, PRODUCE) LÀ GÌ? ĐỊNH NGHĨA, KHÁI NIỆM VỀ SẢN XUẤT

Sản xuất là quá trình hoặc hoạt động mà con người/tổ chức tạo ra của cải vật chất, của cải tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau. Sản xuất là quá trình chuyển hóa các tài nguyên thành những vật (hay sự vật) có giá trị như của cải, hàng hóa, dịch vụ, đồ dùng, phần mềm, ứng dụng…thông qua việc sử dụng các nguồn lực, công cụ khác nhau.

Sản xuất là Hoạt động chuyển hóa đầu vào thành đầu ra, hoặc hoạt động kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa (Định nghĩa này sử dụng trong Kinh tế học và Kinh doanh.)

Các yếu tố sản xuất bao gồm những khía cạnh như:

1, Nhân công, sức lao động. Bao gồm các dịch vụ được cung cấp bởi những người có nhiều nghề nghiệp khác nhau , chẳng hạn như thợ điện, thư ký, bác sĩ, v.v.

2, Tài nguyên. Bao gồm tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên và dưới lòng đất , chẳng hạn như khoáng sản và cây cối,…

3, Tài sản hay hàng hóa khác. Chỉ các hàng hay tiền, vật mang giá trị được tạo ra trong quá trình sản xuất và được sử dụng cho kỳ tiếp theo, tức là tất cả các yếu tố đầu vào do con người tạo ra, chẳng hạn như máy móc, công cụ, v.v. (tất cả đều do con người tạo ra và được sử dụng cho các kỳ sản xuất tiếp theo).

4, Công nghệ

5, Dữ liệu, thông tin, bí quyết…

Sản xuất là quá trình mà tổ chức xã hội chuyển đổi đầu vào thành đầu ra (Định nghĩa này về sản xuất được sử dụng trong lĩnh vực Quản lý học sản xuất).

Sản xuất là quá trình chuyển hóa các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, năng lượng, tri thức, tài nguyên hữu hình hoặc vô hình, v.v. thành các sản phẩm hoặc dịch vụ có giá trị thông qua việc kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau (như lao động, công nghệ, tiền vốn, tài nguyên thiên nhiên, bí quyết v.v.). Mục đích sau cùng của sản xuất là đáp ứng những nhu cầu của con người, tổ chức, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, quốc gia.

Trong thời đại mới hiện nay (thời đại tri thức và khoa học công nghệ cao), khi mà các yếu tố sản xuất có nhiều sự thay đổi như sử dụng nhiều hơn: Trí tuệ nhân tạo, các công cụ-phương tiện sản xuất có tính đổi mới cao, giảm bớt sức lao động con người, chú trọng yếu tố xanh, tính phi biên giới và xuyên không gian… thì định nghĩa về sản xuất không có nhiều sự thay đổi về bản chất, nhưng trong quá trình sản xuất hiện đại và sản xuất trước đây thì sử dụng những nguồn lực tân tiến hơn, vượt trội hơn, giúp giảm đáng kể chi phí.

Sản xuất là quá trình sử dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu, máy móc, nguồn lực, phương tiện sản xuất… để chuyển hóa tài nguyên (gồm vật chất và phi vật chất) thành hàng hóa, dịch vụ, của cải để đáp ứng các nhu cầu của con người, tổ chức.

Theo nghĩa trừu tượng, sản xuất là quá trình sản xuất ra các loại hàng hóa hoặc dịch vụ khác nhau dựa trên nhu cầu của con người/tổ chức bằng cách kết hợp sức lao động của con người với đối tượng lao động và phương tiện lao động trong những điều kiện kỹ thuật cụ thể. Trong quá trình này, con người sẽ sử dụng những kinh nghiệm, dữ liệu, kiến ​​thức và kỹ năng vận hành khác nhau mà toàn thể nhân loại tích lũy được trong quá trình chế tạo, sản xuất, đổi mới.

Sản xuất là quá trình đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người thông qua việc kết hợp và sử dụng các yếu tố sản xuất. Nền tảng của sản xuất nằm ở sự kết hợp và sử dụng các yếu tố sản xuất, bao gồm lao động, đất đai, vốn và tinh thần kinh doanh và nguồn lực khác. Các yếu tố này tương tác và kết hợp với nhau để tạo ra giá trị xã hội, giá trị kinh tế.

CÁC LOẠI HÌNH SẢN XUẤT (PRODUCTION)

Loại hình sản xuất là những phân loại của các hoạt động sản xuất

Theo mức độ liên tục của quá trình sản xuất và sản phẩm công nghiệp, có thể chia thành sản xuất liên tục và sản xuất gián đoạn . Quy trình công nghệ sản xuất liên tục có tính liên tục cao, không cho phép bất kỳ sự gián đoạn nào. Nhìn chung, không có sản phẩm dở dang (work-in-process), bán thành phẩm và các sản phẩm trung gian khác , chẳng hạn như sản xuất điện, công nghiệp hóa chất, sản xuất luyện kim, v.v.

Còn đối Quy trình công nghệ sản xuất gián đoạn có thể được thực hiện gián đoạn theo từng giai đoạn. Toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm có thể được hoàn thành bởi một doanh nghiệp riêng lẻ hoặc bởi nhiều doanh nghiệp thông qua phân công lao động và hợp tác. Nhìn chung, cần có một lượng dự trữ nhất định về sản phẩm dở dang và bán thành phẩm trong quá trình sản xuất, chẳng hạn như sản xuất máy móc, dụng cụ điện

| KIÊN TRÌ, PERSEVERANCE LÀ GÌ? ĐI SÂU VÀO TÌM HIỂU VỀ KIÊN TRÌ

1, Các loại hình sản xuất (thông tin chung)

1.1, Theo đặc điểm công nghiệp của sản xuất

Theo đặc điểm công nghiệp của đối tượng sản xuất trong quá trình sản xuất, công nghiệp có thể được chia thành sản xuất liên tục và sản xuất rời rạc (Discrete Manufacturing). Trong quá trình sản xuất liên tục, vật liệu di chuyển đều và liên tục theo một trình tự công nghiệp nhất định. Công nghiệp hóa chất (nhựa, thuốc, xà phòng, phân bón, v.v.), lọc dầu, luyện kim, tráng phim, v.v. đều là những ví dụ điển hình của sản xuất liên tục. Bởi vì vật liệu phải trải qua từng công đoạn sản xuất liên tục theo một quy trình nhất định.

Một loại sản phẩm khác, chẳng hạn như ô tô, động cơ diesel , tivi, máy giặt, v.v., được lắp ráp từ các bộ phận riêng biệt. Các bộ phận đi qua từng khâu sản xuất với quy trình riêng, và chuyển động vật liệu là rời rạc nên được gọi là sản xuất rời rạc. Do loại sản phẩm hoàn thiện này trước tiên được gia công thành các bộ phận rồi mới lắp ráp thành sản phẩm nên còn được gọi là sản xuất gia công-lắp ráp.

1.2, Theo chiến lược định vị sản phẩm

Theo đặc điểm nhu cầu của người dùng đối với sản phẩm và chiến lược định vị sản phẩm , các loại hình sản xuất có thể được chia thành:

  • Sản xuất lưu kho (MTS)
  • và Sản xuất theo đơn đặt hàng (MTO).

Sản xuất lưu kho có nghĩa là các công ty phát triển và sản xuất sản phẩm theo cách có kế hoạch dựa trên nghiên cứu nhu cầu thị trường ( nhu cầu thực tế và nhu cầu tiềm năng ), liên tục bổ sung hàng tồn kho thành phẩm để đáp ứng nhu cầu của người dùng bất cứ lúc nào thông qua hàng tồn kho (hàng lưu kho). Xe tải, vòng bi, phụ tùng tiêu chuẩn, tủ lạnh, tivi và các sản phẩm khác thường là sản phẩm sản xuất dưới dạng thức lưu kho.

Sản xuất lưu kho có những đặc điểm sau:

  • Việc phát triển chức năng và thiết kế sản phẩm được thực hiện bởi nhà sản xuất;
  • Thường được phân hệ thành sản phẩm,  sản phẩm tiêu chuẩn, và sản phẩm với số lượng hạn chế;
  • Giá sản phẩm được nhà sản xuất xác định trước dựa trên điều kiện thị trường;
  • Và sản phẩm được sản xuất với số lượng lớn.

1.3, Theo chiến lược sản lượng

Theo mức độ lặp lại của hoạt động sản xuất sản phẩm và mức độ chuyên môn hóa nghiệp vụ-công việc, quá trình sản xuất có thể được chia thành các loại:

  •  Sản xuất số lượng lớn,
  • sản xuất đơn chiếc hay sản xuất đơn lẻ (single piece production)
  • và sản xuất hàng loạt, số lượng lớn

| TIÊU DÙNG, TIÊU THỤ, CONSUMPTION LÀ GÌ? Người tiêu dùng, điều khác về Tiêu dùng

2. Đi sâu hơn vào tìm hiểu về các loại hình sản xuất (phân loại đầy đủ và hệ thống hơn)

Mỗi doanh nghiệp công nghiệp có đặc điểm sản xuất riêng về cơ cấu sản phẩm , phương pháp sản xuất , điều kiện trang thiết bị, quy mô sản xuất, mức độ chuyên môn hóa, trình độ kỹ thuật của công nhân và các khía cạnh khác. Những đặc điểm này được phản ánh ở nhiều khía cạnh như công nghệ sản xuất , thiết bị, tổ chức sản xuất và công tác lập kế hoạch . Nó có tác động lớn đến các chỉ tiêu kỹ thuật và kinh tế của doanh nghiệp . Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm và điều kiện thực tế của mình để xây dựng hệ thống quản lý sản xuất phù hợp . Theo cách này, cần phải phân loại doanh nghiệp theo loại hình sản xuất.

2.1, Phân loại Sản xuất theo quy mô sản phẩm, độ phức tạp và sản lượng hàng năm.

1. Sản xuất đơn lẻ, đơn chiếc (single piece production)

2. Sản xuất hàng loạt số lượng lớn (Mass Production)

3. Sản xuất theo lô

2.2, Phân loại theo nguồn kế hoạch sản xuất

2.2.1, Phương thức sản xuất theo đơn đặt hàng .

Dựa trên các yêu cầu đặt hàng cụ thể do người dùng đưa ra, công ty sẽ bắt đầu tổ chức sản xuất và thực hiện các công việc như thiết kế, cung ứng, chế tạo, giao hàng. Các sản phẩm hoàn thiện được sản xuất đa dạng về chủng loại, quy cách, số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng , được giao đến tay người dùng đúng thời hạn theo quy định trong hợp đồng, với rất ít hàng tồn kho thành phẩm.

Do đó, trọng tâm của quản lý sản xuất là nắm bắt được “ngày giao hàng”, tổ chức kết nối và cân đối từng khâu trong quy trình sản xuất theo “ngày” để đảm bảo đạt được đúng tiến độ;

2.2.2, Phương thức sản xuất lưu kho

Đây là hình thức sản xuất theo kế hoạch dựa trên dự báo nhu cầu thị trường và sản phẩm có lượng tồn kho nhất định. Để tránh tình trạng tồn đọng hàng tồn kho và hết hàng, trọng tâm của quản lý sản xuất là đảm bảo sự kết nối giữa cung ứng, sản xuất và bán hàng, tổ chức cân đối giữa từng khâu của quy trình sản xuất theo “số lượng” và đảm bảo hoàn thành đầy đủ các nhiệm vụ đã lên kế hoạch .

2.3, Phân loại sản xuất theo mức độ liên tục của sản xuất

a, Sản xuất liên tục

Đây là quá trình sản xuất liên tục một hoặc một số sản phẩm trong một thời gian dài. Các sản phẩm được sản xuất, quy trình sản xuất và thiết bị sản xuất được sử dụng đều cố định và chuẩn hóa, không có lưu kho sản phẩm đang sản xuất giữa các quy trình. Ví dụ, hoạt động sản xuất dầu tại các mỏ dầu;

b, Sản xuất không liên tục

Các yếu tố khác nhau đưa vào quá trình sản xuất được mang vào một cách không liên tục . Thiết bị sản xuất và thiết bị vận chuyển phải phù hợp với nhu cầu chế tạo của nhiều loại sản phẩm khác nhau, cần có một lượng hàng tồn kho đang sản xuất nhất định giữa các quy trình.

Ví dụ, nhà sản xuất máy công cụ , nhà sản xuất đầu máy xe lửa, nhà máy máy móc công nghiệp nhẹ, v.v.

2.4, Phân loại sản xuất theo chủng loại sản phẩm và số lượng sản xuất

Phân loại theo số lượng chủng loại sản phẩm còn được gọi là phân loại loại hình sản xuất theo mức độ chuyên môn hóa của địa điểm làm việc. Nhìn chung, sản lượng sản phẩm của một công ty càng lớn thì chủng loại sản phẩm càng ít, mức độ chuyên môn hóa sản xuất càng cao, tính ổn định và khả năng lặp lại của sản xuất càng cao .

Ngược lại, sản lượng của doanh nghiệp càng nhỏ, sản phẩm càng đa dạng, trình độ chuyên môn hóa sản xuất càng thấp, tính ổn định và khả năng lặp lại của sản xuất càng thấp. Có thể thấy, sản lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm và trình độ chuyên môn hóa quyết định loại hình sản xuất và có mối liên hệ mật thiết với nhau, do đó có tác động cũng như đặt ra các yêu cầu khác nhau đối với công nghệ, tổ chức và sản xuất kinh tế (Economic product).

2.5, Phân loại sản xuất theo khối lượng sản xuất sản phẩm

Xét về khối lượng sản xuất sản phẩm, các loại hình sản xuất có thể chia thành:

  • Sản xuất quy mô lớn một số ít chủng loại sản phẩm,
  • Sản xuất quy mô trung bình (theo lô)
  • và sản xuất quy mô nhỏ nhiều chủng loại sản phẩm.

Trong sản xuất theo lô, có thể chia thành sản xuất theo lô lớn, sản xuất theo lô vừa và sản xuất theo lô nhỏ .

Do sản xuất đại trà hàng loạt (số lượng nhiều) và sản xuất theo lô có đặc điểm tương tự, cũng như sản xuất đơn chiếc và sản xuất theo lô nhỏ cũng có đặc điểm tương tự nên trong thực tế công việc thường được chia thành:

  • Sản xuất theo lô lớn
  • và sản xuất theo lô
  • và sản xuất theo lô nhỏ đơn chiếc.

Nhìn chung, sản xuất hàng loạt số lượng lớn và sản xuất theo lô lớn có đặc điểm là ổn định, hiệu quả cao, chi phí thấp và quản lý đơn giản. Tuy nhiên, nó cũng có đặc điểm là đầu tư lớn ( trang thiết bị máy móc chuyên dụng, nguyên liệu nhập nhiều), khả năng thích ứng kém và tính linh hoạt kém. Điều này sẽ gây ra tổn thất lớn cho việc nâng cấp, cải tiến sản phẩm.

Sản xuất đơn chiếc (sản xuất đa dạng chủng loại sản phẩm), hoặc sản xuất lô nhỏ do sản phẩm tại công xưởng liên tục thay đổi, hoạt động chuẩn bị thay đổi thường xuyên nên năng lực sản xuất chưa được khai thác hết (người và máy móc thiết bị đều nhàn rỗi chờ đợi), tính ổn định sản xuất kém, hiệu quả thấp, chi phí cao, công tác quản lý phức tạp. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng hết sức để chuẩn bị cho công đoạn tác nghiệp sản xuất, giao việc, lập kế hoạch lịch trình công  việc và điều chỉnh lịch trình.

Đặc điểm của sản xuất theo lô trung (vừa) thì nằm giữa hai đặc điểm trên.

TỐI ƯU CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT NHƯ THẾ NÀO

Các loại hình sản xuất khác nhau có tác động đáng kể đến sản xuất, vận hành, quản lý của doanh nghiệp và các chỉ tiêu kỹ thuật kinh tế khác nhau.

Các loại hình sản xuất khác nhau có lợi ích kinh tế khác nhau .

Chi phí của sản phẩm sản xuất với số lượng lớn và sản xuất theo lô lớn thấp hơn so với sản phẩm sản xuất đơn chiếc hoặc theo từng lô (vừa và nhỏ).

Do đó, sản xuất hàng loạt và sản xuất theo lô lớn là loại hình sản xuất ưu việt, sản xuất theo lô đứng thứ hai và sản xuất theo lô nhỏ hay sản xuất đơn chiếc từng sản phẩm là loại hình kém nhất về mặt chi phí và các chỉ tiêu kỹ thuật, chỉ tiêu kinh tế.

Bởi vậy, nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho những người tổ chức tái sản xuất là làm thế nào để tổ chức sản xuất theo phương thức sản xuất theo lô nhỏ, sản xuất đơn chiếc và sản xuất theo phương thức sản xuất hàng loạt, sản xuất lô lớn bằng mọi biện pháp, phương pháp có thể, nhằm nâng cao các chỉ tiêu kỹ thuật của doanh nghiệp .

Thực tiễn cho thấy có thể sử dụng các cách sau để mở rộng lô sản xuất, tăng mức độ chuyên môn hóa nơi làm việc, từ đó thay đổi loại hình sản xuất của doanh nghiệp.

1, Theo nguyên tắc hoạch định toàn diện và sắp xếp thống trù, tích cực phát triển hợp tác chuyên môn hóa trong sản xuất công nghiệp, bao gồm chuyên môn hóa sản phẩm , chuyên môn hóa bộ phận , chuyên môn hóa quy trình và chuyên môn hóa sản xuất phụ trợ, cũng như các hình thức hợp tác sản xuất tương ứng khác nhau , để tạo điều kiện giảm sản xuất trùng lặp , tăng sản lượng sản phẩm tương tự , đơn giản hóa cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp và nâng cao trình độ chuyên môn hóa.

2, Về thiết kế sản phẩm , tiến hành phân tích cấu trúc sản phẩm, cải tiến thiết kế sản phẩm, tăng cường trình tự hóa, chuẩn hóa và tổng quát hóa sản phẩm, sử dụng rộng rãi linh kiện tiêu chuẩn và linh kiện chung .

3, Về mặt tổ chức sản xuất, áp dụng kỹ thuật nhóm, gia công tập trung các linh kiện có chủng loại cùng nhóm, và công nghệ nhóm.

4. Về công tác kế hoạch, tăng cường công tác kế hoạch, kết hợp hợp lý các chủng loại sản phẩm, giảm số lượng chủng loại sản phẩm sản xuất trong cùng kỳ.

5. Về mặt tổ chức lao động, tăng cường trang thiết bị và công nhân cần thiết để giảm tương đối số lượng công việc trung bình cần thực hiện tại mỗi công xưởng.

Thông qua các biện pháp nêu trên, có thể nâng cấp loại hình sản xuất của doanh nghiệp ở một mức độ nhất định, bổ sung thêm nhiều yếu tố sản xuất theo lô lớn và số lượng lớn, nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc thay đổi loại hình sản xuất không có nghĩa là tăng sản lượng vô hạn. Loại sản phẩm mà một công ty sản xuất phụ thuộc vào số lượng sản phẩm cũng như tính ổn định, khả năng lặp lại của sản xuất.

Áp dụng phương pháp luân chuyển sản phẩm nào và quy mô lô sản phẩm của mỗi sản phẩm là bao nhiêu được coi là vấn đề về cách thức và phương pháp tổ chức sản xuất cụ thể.

TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH CỦA SẢN XUẤT

1, Phân chia quá trình sản xuất

Quá trình sản xuất là toàn bộ quá trình của một doanh nghiệp từ khâu đầu vào nguyên liệu đến khâu đầu ra sản phẩm.

Quá trình này thường có thể được chia thành:

1.1, Quá trình công nghệ

Quá trình công nghệ trong sản xuất là quá trình làm thay đổi trực tiếp bản chất, hình dạng, kích thước,… của đối tượng lao động . Đây là phần cơ bản nhất của quá trình sản xuất.

1.2, Quá trình kiểm tra, kiểm nghiệm

Quá trình kiểm tra, kiểm nghiệm là bước cần thiết trong quá trình hình thành sản phẩm. Kiểm tra không tạo ra giá trị nhưng lại tốn kém, do đó, càng ít quy trình kiểm tra thì càng tốt.

1.3, Quá trình vận chuyển

Quá trình vận chuyển là quá trình chuyển đối tượng lao động từ quá trình này sang quá trình khác.

1.4, Quá trình tự nhiên

Quá trình tự nhiên là quá trình hoàn thiện các tính chất của nó dưới tác động của các tác động tự nhiên . Chẳng hạn như quá trình lên men trong chế biến sản xuất cà phê.

1.5, Quá trình chờ gia công

Quá trình chờ xử lý đề cập đến việc dừng và chờ đợi xảy ra khi hoạt động tiếp theo không thể được thực hiện liên tục.

2, Các yêu cầu, điều kiện để tổ chức hợp lý quá trình sản xuất

Các yêu cầu cơ bản để tổ chức hợp lý quá trình sản xuất bao gồm:

2.1, Tính liên tục của quá trình sản xuất

Tính liên tục của quá trình sản xuất , nghĩa là sản phẩm ở trạng thái liên tục theo thời gian trong suốt quá trình sản xuất mà không bị gián đoạn về mặt thời gian;

2.2, Tính tỉ lệ của quá trình sản xuất

Tính tỉ lệ của quá trình sản xuất, nghĩa là năng lực sản xuất của từng công đoạn, từng khâu của quá trình sản xuất phải được phát triển theo tỷ lệ tương xứng để đạt được sự phân bổ nguồn lực tối ưu;

2.3, Sự cân bằng của quá trình sản xuất

Sự cân bằng của quá trình sản xuất đề cập đến sự ổn định của tốc độ sản xuất tại mỗi khâu sản xuất và sự ổn định tương đối của mỗi khối lượng (Workload) công việc ;

2.4, Khả năng thích ứng của quá trình sản xuất

Khả năng thích ứng của quá trình sản xuất là khả năng điều chỉnh sản xuất theo những thay đổi của thị trường;

2.5, Tính song song của quá trình sản xuất

Tính song song của quá trình sản xuất có nghĩa là các đối tượng gia công được thực hiện song song trong cùng lúc của quá trình sản xuất .

3, Nguyên tắc tổ chức quá trình sản xuất

Quá trình sản xuất có thể được tổ chức theo các nguyên tắc:

  • Chuyên môn hóa công nghệ ,
  • Chuyên môn hóa đối tượng
  • Và sự phan trộn, hỗn hợp

Chuyên môn hóa công nghệ là việc phân chia các đơn vị sản xuất và sắp xếp các phân xưởng theo bản chất của công nghệ sản xuất. Trong một đơn vị sản xuất chuyên biệt theo công nghệ, cùng một loại thiết bị, cùng một loại công nhân và cùng một phương pháp kỹ thuật công nghệ được sử dụng để gia công, sản xuất. Chẳng hạn như mài, lắp ráp, xử lý nhiệt, v.v. Nguyên tắc tổ chức này phổ biến trong ngành dịch vụ, chẳng hạn như bệnh viện có khoa phẫu thuật , sản khoa, nhi khoa , khoa cấp cứu, v.v.

Chuyên môn hóa đối tượng là sắp xếp các xưởng và tổ chức sản xuất theo sản phẩm (bộ phận hoặc thành phần). Trong một đơn vị sản xuất chuyên biệt, có nhiều thiết bị và công nhân với các công việc tương ứng. Chẳng hạn như bánh răng, động cơ, khung gầm, v.v. Quản lý dự án là một ví dụ điển hình về việc tổ chức sản xuất theo chuyên môn hóa đối tượng.

Nguyên tấc phan trộn (hay hỗn hợp) là sự kết hợp của chuyên môn hóa đối tượng và chuyên môn hóa công nghệ.

MỐI QUAN HỆ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ SẢN XUẤT TINH THẦN

Sản xuất vật chất, tức là sản xuất ra tư liệu sản xuất, là hoạt động lao động trong đó con người sử dụng tư liệu lao động để cải tạo thiên nhiên, tạo ra của cải vật chất.

Sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

Người lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động kết hợp trong quá trình lao động tạo nên nền sản xuất vật chất thực sự.

Sản xuất vật chất bao gồm hai mặt: năng suất và quan hệ sản xuất.

Năng suất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất phản ánh lại với năng suất. Sự vận động mâu thuẫn giữa hai mặt này là động lực cơ bản của sự phát triển xã hội.

Sản xuất vật chất liên tục phân hóa thành các ngành mới trong quá trình phát triển xã hội. Kết quả của sản xuất vật chất được biểu hiện thành nền văn minh vật chất.

Sản xuất tinh thần thường đề cập đến các hoạt động khám phá và sáng tạo được thực hiện trong lĩnh vực ý thức và tư duy bởi các tầng lớp xã hội có những dấu nét đặc biệt. Đây là quá trình con người sử dụng nhận thức, cơ quan tư duy và công cụ để xử lý, sản xuất nguyên liệu thô cho sản xuất tinh thần và hình thành các sản phẩm khái niệm.

Sản phẩm của sản xuất tinh thần nói chung không có hình thái tồn tại vật chất mà được biểu hiện dưới những hình thái hữu hình như các tác phẩm khoa học lý luận , tác phẩm văn học nghệ thuật…

Sản xuất tinh thần ban đầu gắn liền với sản xuất vật chất, sau khi xuất hiện sản phẩm thặng dư mới dần dần phân tách.

Kể từ đó, bản thân sản xuất tinh thần đã tiếp tục phân tách thành nhiều bộ phận, có thể được chia thành hai loại: kiến ​​thức và văn hóa, ý thức hệ và đạo đức.

Kết quả của sự sản xuất tinh thần được thể hiện trong nền văn minh tinh thần. Có mối quan hệ biện chứng giữa sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần trong xã hội.

Sản xuất vật chất quyết định sản xuất tinh thần, và sản xuất tinh thần lại dựa trên sản xuất vật chất tương ứng.

Những phương thức sản xuất vật chất khác nhau sẽ dẫn đến những sản phẩm tinh thần tương ứng khác nhau, kết quả và tác động xã hội của nó cũng khác nhau.

Mặt khác, sản xuất tinh thần và kết quả của nó thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần đều có quy luật phát triển riêng. Có sự mất cân bằng trong phát triển giữa sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.

HOẠT ĐỘNG NÔNG NGHIỆP: LĨNH VỰC SẢN XUẤT CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ

Nông nghiệp được coi là một lĩnh vực, ngành sản xuất quan trọng và căn bản của kinh tế quốc dân, là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đây là lý do vì sao hoạt động Nông nghiệp được đề cập trong chủ đề về Sản xuất này.

1, Sự cần thiết của sản xuất nông nghiệp trong xã hội, nền kinh tế

Sản xuất nông nghiệp có liên quan mật thiết đến đời sống con người. Nó cung cấp cho con người nguồn vật chất để tạo ra lương thực, quần áo và các nhu yếu phẩm hàng ngày, đảm bảo nhu cầu sống của toàn thể xã hội.

Sự phát triển của các ngành khác như công nghiệp, thương mại và vận tải đều dựa trên sự phát triển liên tục của sản xuất nông nghiệp. Thông qua các hoạt động sản xuất như nông nghiệp, con người tiếp xúc với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Chỉ bằng cách thực hiện các hoạt động nông nghiệp khoa học, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường tốt nhất.

Sản xuất nông nghiệp là quá trình con người sử dụng năng lực sản xuất tự nhiên của đất đai để trồng trọt hoặc chăn nuôi nhằm thu được những sản phẩm mong muốn.

Cho dù đó là sự phát triển của cây trồng (lúa nước, lúa mì, ngô, cà phê…) hay sự phát triển của gia súc và cừu, đều cần có đầu vào của các điều kiện tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, nước, địa hình, đất và lao động để thu được sản lượng;

Nếu bạn muốn thúc đẩy sản lượng, bạn cần phải đầu tư nhiều hơn vào phương tiện sản xuất ; Nếu bạn tăng đầu tư vào khoa học và công nghệ, điều đó sẽ giúp tăng thêm sản lượng nông nghiệp, và các nước tiên tiến trên thế giới đã chứng minh điều này.

2, Sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp

1, Phát triển từ “tự nhiên hóa” đến “công nghiệp hóa”

Trong thế kỷ 21, một số lượng lớn cây trồng, rau và hoa màu sẽ được chuyển từ ruộng sang nhà kính, rồi từ nhà kính sang môi trường được kiểm soát trong nhà, hướng tới sản xuất “công nghiệp hóa”.

Đến khi đó, sản xuất nông nghiệp sẽ được thực hiện theo nhu cầu thị trường, gieo trồng và thu hoạch quanh năm. Do đó, sản xuất nông nghiệp trong tương lai sẽ giảm bớt tính chất theo vùng và theo mùa của sản xuất nông nghiệp.

2, Phát triển từ “cơ giới hóa” đến “tự động hóa”

Cơ giới hóa nông nghiệp đã mang lại sức sống to lớn cho nền nông nghiệp hiện đại , đặc biệt là đóng góp to lớn vào việc giải phóng sức lao động. Với mạng lưới máy tính và robot có khả năng cao tham gia vào việc quản lý chung hoạt động nông nghiệp và hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau trong nông trại, sản xuất nông nghiệp đã bước vào kỷ nguyên tự động hóa.

3, Sự phát triển từ “hóa học hóa” đến “sinh học hóa”

Nông nghiệp hiện đại sử dụng rộng rãi phân bón hóa học , thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ, có thể được gọi là “thời đại hóa chất”. Tuy nhiên, nền nông nghiệp hóa học này đã gây tổn hại đến tài nguyên thiên nhiên và cân bằng sinh thái. Với sự phát triển của công nghệ sinh học như kỹ thuật di truyền, tình hình này đang thay đổi trong thế kỷ 21.

4, Sự phát triển từ “kiểu dầu mỏ” đến “kiểu sinh thái”

Trong khi “ nông nghiệp dầu mỏ ” đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền nông nghiệp hiện đại ở các nước phương Tây thì nó cũng mang lại hệ quả nghiêm trọng. “Nông nghiệp sinh thái” có thể đạt được lợi ích toàn diện như phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường, tái tạo và sử dụng năng lượng, lợi ích kinh tế. Vì vậy, đây là xu hướng tất yếu cho phát triển nông nghiệp bền vững trong thế kỷ 21.

5, Phát triển từ “đơn hướng” đến “toàn diện”

Đặc điểm của nền nông nghiệp toàn diện là: về đất đai và phân bón, sử dụng phân hữu cơ, phân xanh, rơm rạ trả về ruộng, cũng như phân đạm, lân, kali vô cơ; ngoài ra còn sử dụng biện pháp quản lý khoa học và toàn diện về kiểm soát cỏ dại, dịch bệnh, sâu bệnh, v.v.; nông nghiệp toàn diện cũng phải xem xét và sắp xếp toàn diện về kinh tế, việc làm, môi trường, thiên nhiên, cảnh quan, chất lượng lương thực và phúc lợi xã hội.

6, Phát triển từ “phẳng” sang “ba chiều”

Vào thế kỷ 21, diện tích đất canh tác bình quân đầu người sẽ còn ít hơn nữa. Do đó, bố cục của cây trồng sẽ phát triển từ hai chiều thành ba chiều. Sự khéo léo nằm ở chỗ tận dụng được “sự khác biệt về không gian” và “ sự khác biệt về thời gian ” của các loại cây trồng khác nhau trong quá trình sinh trưởng, tạo ra những sự kết hợp xen kẽ và sự kết hợp toàn diện để hình thành nên một hệ thống sản xuất hiệu quả đa cấp, đa chức năng và đa mục đích.

7, Phát triển từ “kiểu trang trại” đến “kiểu công viên”

Vào thế kỷ 21, nông nghiệp sẽ có xu hướng phát triển thành các công viên tham quan, không chỉ có công nghệ quản lý mới nhất mà còn có nhiều loài động vật, thực vật, hoa và địa điểm giải trí quý hiếm.

8, Phát triển sản xuất từ “kiểu đất liền” đến “kiểu đại dương”

Vào thế kỷ 21, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên nông nghiệp phát triển đại dương. Vào thời điểm đó, con người không chỉ cải thiện năng suất trên diện tích đất đai hạn chế mà còn hướng sự chú ý đến đại dương, thu được nhiều “thức ăn mới” hơn từ đại dương và phát triển mạnh mẽ “nông nghiệp biển”.

LOẠI BỎ SỰ LÃNG PHÍ TRONG SẢN XUẤT, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHI PHÍ TRONG SẢN XUẤT

Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, chi phí sản xuất phải được kiểm soát chặt chẽ nhằm loại bỏ mọi lãng phí không cần thiết trong sản xuất, tức là đạt được quản lý tinh gọn tại chỗ . Các biện pháp ứng phó chính như sau:

1, Tăng cường kiểm soát kế hoạch sản xuất và thực hiện quản lý kanban .

Việc xây dựng kế hoạch sản xuất phải mang tính dự báo, việc phân tích mục tiêu kế hoạch sản xuất phải cụ thể, khoa học, phù hợp với tình hình sản xuất thực tế, giảm số lần đơn vị sản xuất thay đổi thông số quy trình thiết bị , nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị.

Quản lý Kanban được sử dụng trong các tổ chức sản xuất để thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch một cách hiệu quả.

Quản lý Kanban là phương pháp quản lý sử dụng nhiều thông tin nhận thức trực quan với hình ảnh trực quan và màu sắc phù hợp để tổ chức các hoạt động sản xuất tại chỗ, nhằm cải thiện năng suất lao động .

Kanban dựa trên nguyên tắc cơ bản là tín hiệu trực quan và tính cởi mở. Điều đó làm cho các yêu cầu và ý định của người quản lý được mọi người thấy rõ nhất có thể, do đó thúc đẩy khả năng tự quản lý và tự chủ . Người quản lý phải thông báo cho từng phân xưởng sản xuất về kế hoạch sản xuất, tình hình đơn hàng, tình hình sản xuất hàng ngày và các điều kiện bất thường dưới dạng bảng kanban để mọi người có thể tham gia quản lý.

Thẻ kanban sản xuất cho từng khoảng thời gian được treo ở những vị trí thích hợp trên dây chuyền sản xuất và trưởng nhóm sử dụng biểu mẫu sản xuất hàng ngày để điền thông tin đầu vào và đầu ra của lệnh sản xuất nhằm hướng dẫn hoạt động sản xuất của đơn vị sản xuất.

2, Thực hiện phân tích công thái học về hoạt động, tăng cường đào tạo nhân viên và chuẩn hóa hoạt động của nhân viên.

Lao động không hiệu quả không những làm tăng cường độ lao động của người vận hành mà còn làm giảm hiệu quả lao động và dễ gây ra tai nạn an toàn. Phân tích công thái học trong hoạt động có nghĩa là phân tích hành vi vận hành của nhân viên , loại bỏ các hành động vô lý và không cần thiết trong quá trình vận hành, tìm ra các tiêu chuẩn vận hành và đào tạo nhân viên dựa trên các tiêu chuẩn này. Bằng cách chuẩn hóa hành vi vận hành của nhân viên, chúng ta có thể cải thiện hiệu quả lao động, giảm chi phí lao động, tăng hiệu suất sử dụng thiết bị và cải thiện lợi ích kinh tế của công ty .

3, Tăng cường quản lý địa điểm cố định và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Quản lý địa điểm cố định là phương pháp quản lý khoa học , phân tích, nghiên cứu một cách khoa học mối quan hệ giữa con người, đồ vật và địa điểm tại địa điểm sản xuất để đạt được sự kết hợp tốt nhất.

Phương pháp này lấy vị trí khoa học của các đối tượng tại địa điểm làm điều kiện tiên quyết, sử dụng hệ thống thông tin hoàn chỉnh làm phương tiện và hướng tới mục tiêu kết hợp hiệu quả giữa con người và đối tượng.

Bằng cách phân loại và sắp xếp lại địa điểm sản xuất, các vật dụng không cần thiết trong sản xuất sẽ được loại bỏ và các vật dụng cần thiết sẽ được đặt vào những vị trí được chỉ định để dễ dàng sử dụng, do đó loại bỏ cơ bản lãng phí vận chuyển và các hành động không hiệu quả.

Nói một cách cụ thể, theo mục đích hoạt động sản xuất, xét đến hiệu quả, chất lượng và các ràng buộc khác của hoạt động sản xuất và các yêu cầu đặc biệt của bản thân các mặt hàng, phân chia các vị trí đặt phù hợp và xác định trạng thái đặt các mặt hàng tại các vị trí đó? Nó đóng vai trò là phương tiện thông tin kết nối giữa con người và vật thể , thúc đẩy sự kết hợp giữa con người và vật thể và các hoạt động sản xuất hiệu quả. Quản lý vị trí cố định trước tiên phải giải quyết được vấn đề tích hợp hiệu quả giữa con người và đồ vật, đòi hỏi phải phân tích trạng thái tích hợp của con người và đồ vật. Kết quả của việc quản lý địa điểm cố định là phối hợp việc bố trí khoa học và hợp lý các địa điểm khác nhau và cuối cùng là hoàn thiện thiết kế bản đồ địa điểm cố định và thiết kế phương tiện thông tin.

4, Tăng cường kiểm soát chất lượng quá trình sản xuất, giảm tỷ lệ sản phẩm lỗi .

Ban quản lý tại chỗ phải kiểm soát chặt chẽ chất lượng công việc đang thực hiện để đảm bảo tỷ lệ chất lượng sản phẩm hợp lý . Sản phẩm lỗi gây lãng phí nguồn nhân lực và vật lực quý giá nhưng không thể bán được trên thị trường.

Hơn nữa, cần phải có một lượng nhân lực và vật lực nhất định để xử lý những sản phẩm lỗi. Kiểm soát chất lượng là chức năng quan trọng của quản lý công trình. Trước hết, chúng ta phải phân tích hợp lý các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm , làm rõ trách nhiệm chất lượng của từng công đoạn sản xuất, hoàn thiện các chỉ tiêu chất lượng của từng công đoạn để đảm bảo chất lượng sản phẩm hoàn thiện .

Nhấn mạnh rằng chất lượng được tạo ra chứ không phải được kiểm tra và chất lượng cuối cùng được đảm bảo thông qua quy trình quản lý chất lượng . Thứ hai, phải tăng cường giám sát chất lượng toàn bộ quá trình sản xuất , mỗi quy trình phải đảm bảo không có sản phẩm lỗi nào được tạo ra và không ảnh hưởng đến các quy trình tiếp theo. Một lần nữa, đối với bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào trong kiểm soát chất lượng, nguyên nhân phải được xác định kịp thời và các sản phẩm lỗi phải được loại bỏ ngay từ đầu.

Cuối cùng, bồi dưỡng nhận thức về chất lượng của mỗi nhân viên , đảm bảo phát hiện kịp thời các vấn đề về chất lượng và liên tục cung cấp giáo dục chất lượng cho nhân viên tại chỗ để họ coi trọng chất lượng trong tâm trí, nắm vững các phương pháp quản lý chất lượng phù hợp với công việc của mình và có trình độ vận hành kỹ thuật cao.

5, Thiết lập hệ thống khen thưởng, phạt và lương dựa trên hiệu suất để nâng cao động lực của nhân viên.

Trong quản lý tại chỗ , các giám sát viên tuyến đầu đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát cơ bản, động viên, phản hồi hiệu suất và đào tạo. Thực hiện đánh giá và phản hồi hiệu suất làm việc của nhân viên , kịp thời trao đổi thẳng thắn với những nhân viên có hiệu suất làm việc kém và giúp họ xây dựng phương pháp, biện pháp cải thiện hiệu suất làm việc.

Đối với đánh giá hiệu suất , việc hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ công việc được sử dụng làm tiêu chuẩn đánh giá; đối với đánh giá thường xuyên, các chuẩn mực hành vi hàng ngày và thực hiện quy trình được sử dụng làm tiêu chuẩn đánh giá và cả hai đều là cơ sở cho phần thưởng, hình phạt và thù lao về hiệu suất. Gắn kết lợi ích của nhân viên với mục tiêu kết quả của công ty , nâng cao nhiệt huyết và hiệu quả làm việc của nhân viên , đạt được sự phối hợp hiệu quả và tương tác tích cực giữa các vị trí khác nhau trong xưởng. Chỉ bằng cách này , hiệu quả sản xuất mới có thể đạt đến mức tối ưu.

MỘT SỐ CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT SẢN XUẤT MỚI HIỆN NAY

Với sự tiến bộ không ngừng của khoa học và công nghệ, nhiều công nghệ, kỹ thuật sản xuất mới đã xuất hiện trong lĩnh vực sản xuất nói chung. Những công nghệ mới này không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn đóng góp quan trọng vào việc đổi mới sản phẩm và bảo vệ môi trường. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu một số công nghệ mới liên quan đến sản xuất hiện nay:

1, Sản xuất bồi đắp, còn được gọi là in 3D,

Là một quá trình xây dựng vật thể bằng cách lắng đọng vật liệu theo từng lớp.

Quá trình này có thể sản xuất chính xác các bộ phận và sản phẩm mang nhiều hình dạng phức tạp dựa trên mô hình ba chiều được thiết kế trên máy tính.

Ưu điểm của sản xuất bồi đắp là tiết kiệm vật liệu, giảm các bước xử lý, rút ​​ngắn chu kỳ sản xuất và cho phép sản xuất theo yêu cầu cá nhân hóa.

 Hiện nay, sản xuất bồi đắp đã được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực hàng không, ô tô, y tế và nhiều lĩnh vực khác.

2, Sản xuất dòng chảy liên tục (Continuous Flow)

Đây là phương thức kỹ thuật sản xuất hiệu quả giúp chuyển đổi nhanh chóng sản phẩm từ nguyên liệu thô thành thành phẩm bằng cách chia quy trình sản xuất thành một loạt các quy trình phụ liên tục và ổn định.

Quy trình kỹ thuật này nhấn mạnh vào sự cân bằng và phối hợp của dây chuyền sản xuất, tránh lãng phí và thời gian chờ đợi trong sản xuất hàng loạt truyền thống. Sản xuất theo quy trình liên tục có thể cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm chi phí tồn kho và đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường.

3, Sản xuất kỹ thuật số (digital manufacturing)

Đây được coi là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để mô phỏng, tối ưu hóa và kiểm soát quá trình sản xuất.

Thông qua công nghệ số, doanh nghiệp có thể làm cho quá trình sản xuất trở nên trực quan, dễ kiểm soát và thông minh.

Ưu điểm của sản xuất kỹ thuật số là cải thiện độ chính xác của sản xuất, giảm lỗi của con người, tối ưu hóa quy trình sản xuất và khả năng giám sát và bảo trì từ xa.

Với sự phát triển nhanh chóng của Internet công nghiệp, sản xuất số sẽ trở thành xu hướng quan trọng trong sản xuất công nghiệp trong tương lai.

4, Công nghệ, kỹ thuật sản xuất xanh

Công nghệ sản xuất xanh là phương pháp sản xuất chú trọng vào bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Nó nhấn mạnh vào việc giảm ô nhiễm, giảm tiêu thụ năng lượng và cải thiện việc sử dụng tài nguyên trong quá trình sản xuất để đạt được mục tiêu kép là lợi ích kinh tế và môi trường.

Các quy trình sản xuất xanh bao gồm tái chế, sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải cùng các biện pháp kỹ thuật khác, hỗ trợ mạnh mẽ cho quá trình chuyển đổi xanh của doanh nghiệp.

Với sự cải thiện liên tục về nhận thức môi trường toàn cầu, công nghệ sản xuất xanh sẽ trở thành hướng phát triển quan trọng của sản xuất công nghiệp trong tương lai.


Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *