THƯƠNG MẠI, COMMERCE LÀ GÌ? Bản chất của Thương Mại và các kiến thức

THƯƠNG MẠI (COMMERCE) là hoạt động kinh tế hướng tới lợi nhuận thông qua trao đổi giá trị tương đương, việc trao đổi giá trị được thực hiện bằng hình thức mua bán, đầu tư, giao dịch, vận chuyển, bảo hiểm, hay bất kỳ hình thức nào để mang tới lợi nhuận và/hoặc giá trị cho chủ thể thương mại (người bán, người mua, doanh nghiệp, quốc gia…).

THƯƠNG MẠI, COMMERCE LÀ GÌ? Bản chất của Thương Mại và các kiến thức
THƯƠNG MẠI (COMMERCE) là hoạt động kinh tế hướng tới lợi nhuận thông qua trao đổi giá trị

Thương Mại hay COMMERCE là tất cả các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận và cung cấp giá trị thông qua việc trao đổi giá trị tương đương dựa trên nhận thức ngang bằng của mọi người.

Thương mại (COMMERCE) là hoạt động mua bán, trao đổi, giao dịch hàng hóa (sản phẩm/dịch vụ) và các hoạt động khác có liên quan để hướng tới mục đích lợi nhuận, đồng thời cung cấp giá trị cho các bên (khách hàng, đối tác, thị trường…). Các hoạt động khác ở đây có thể là đầu tư, cấp vốn, nhượng quyền, bảo hiểm, Logistics, Marketing, phân phối, pháp luật, R&D, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI)…

Thương Mại (tiếng Anh: COMMERCE, Trade) là chỉ những hoạt động có mục đích thu lãi (lợi nhuận) như mua bán, xuất nhập khẩu, giao dịch, đầu tư, kinh doanh, bảo hiểm, sản xuất, vận chuyển, bán hàng online trong nước hoặc xuyên biên giới, …

Thương mại Trong tiếng Trung Quốc là 商业 (đọc thành shāng yè) hoặc 商务 (shāng wù). Mặc dù mang nghĩa thương mại nhưng những từ tiếng Trung này cũng có những ý nghĩa khác như buôn bán, kinh doanh, thương vụ…

Trong chuyên đề này, Lương sẽ cùng bạn tập trung tìm hiểu sâu về Thương Mại (COMMERCE) là gì, bản chất của thương mại, quá trình hình thành thương mại, cơ hội thương mại (cơ hội kinh doanh) đến từ đâu,

THƯƠNG MẠI, COMMERCE LÀ GÌ? Định nghĩa và tìm hiểu sâu về Thương Mại

1, Khái niệm, định nghĩa về THƯƠNG MẠI, COMMERCE là gì?

Thương mại là hoạt động kinh tế cho phép lưu thông hàng hóa thông qua hình thức mua bán, giao dịch, trao đổi. Ở giai đoạn đầu hình thành thương mại, đây là hoạt động xã hội được thực hiện dưới hình thức trao đổi hàng hóa. Sau đó, nó phát triển thành một hoạt động kinh tế sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi, thông qua đó hình thành lưu thông hàng hóa.

THƯƠNG MẠI, COMMERCE LÀ GÌ? Bản chất của Thương Mại và các kiến thức

Thương mại bắt nguồn từ hoạt động trao đổi hàng hóa trong xã hội xưa. Bản chất của thương mại là trao đổi và tiêu dùng, đó là sự trao đổi tương đương dựa trên nhận thức của mọi người về giá trị (điều này lí giải vì sao 1 chỉ Vàng nhỏ nhưng có thể trao đổi được nhiều hộp cơm với kích thước lớn hơn vàng).

Thương mại là hoạt động kinh tế sử dụng tiền tệ làm phương tiện (trung gian) để trao đổi, từ đó thực hiện lưu thông hàng hóa. Đó là hành vi có tính toán, tổ chức nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Trong giai đoạn sơ khai hình thành thương mại, đây là hoạt động xã hội được tiến hành dưới hình thức lấy vật đổi vật. Sau đó, nó phát triển thành một hoạt động kinh tế sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi, nhờ đó mà lưu thông hàng hóa xảy ra.

Thương mại có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, Thương mại là tất cả các hoạt động có mục đích lợi nhuận. Còn theo nghĩa hẹp, thương mại là các hoạt động chuyên môn về trao đổi hàng hóa (sản phẩm/dịch vụ) và có tính chất lợi nhuận.

Thương mại có thể được chia thành nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Thương mại theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận; trong khi thương mại theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận chuyên về trao đổi hàng hóa.

Theo nghĩa rộng về Thương mại như vừa đề cập, thương mại cũng bao gồm các hoạt động như Logistics (vận chuyển, kho bãi), marketing, hối đoái, nhân lực, hoạt động của trí tuệ nhân tạo (AI), ngân hàng, pháp luật, công nghệ, văn hóa xã hội, giáo dục, và tất cả mọi hoạt động khác dù ở quy mô vi mô hay vĩ mô nhưng đều hướng đến mục đích lợi nhuận cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, thậm chí là quốc gia, vùng-lãnh thổ. Các hoạt động như đã đề cập ở trên có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với người mua, người bán hoặc chủ thể thương mại (cá nhân, doanh nghiệp,…), những hoạt động này khi đặt trong bối cảnh phù hợp, sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và giá trị của các bên trao đổi, vì vậy những hoạt động như Logistics, ngân hàng (vốn), công nghệ, văn hóa xã hội, nhân lực, Marketing… là một phần của Thương mại (COMMERCE).

Thương mại thường được nhiều người hiểu là tương đồng hay cùng nghĩa với Kinh doanh (Business), buôn bán, phân phối, tuy vậy về mặt bản chất những khái niệm này khác nhau. Lương sẽ phân tích mỗi khái niệm này trong các chuyên đề khác. Trong chuyên đề này Lương sẽ tập trung vào Thương Mại (COMMERCE), để từ đó chúng ta có thể nắm bắt và vận dụng vào công việc, cuộc sống hoặc sự nghiệp sáng lập, khởi nghiệp kinh doanh của bạn.

2, Quá trình thương mại hoàn chỉnh được hình thành như thế nào?

Khi bàn luận sâu về quá trình hình thành thương mại, Nhà kinh tế Peter Ferdinand Drucker, là cha đẻ của Quản trị kinh doanh hiện đại đã đề cập rằng: Một vấn đề xã hội là một cơ hội thương mại (cơ hội kinh doanh), và một vấn đề xã hội lớn cũng là một cơ hội thương mại lớn. Thương mại vì có những khó khăn của người tiêu dùng, mà hình thành nhu cầu của người dùng; vì có nhu cầu của người dùng, nên sản sinh ra sự sáng tạo giá trị; nhờ có sáng tạo giá trị, nên đã xuất hiện truyền thông giá trị (lan truyền giá trị); vì có truyền thông giá trị, nên có sự công nhận giá trị; vì có công nhận giá trị, nên hình thành trao đổi giá trị; vì có trao đổi giá trị, nên sau cùng tạo thành quá trình thương mại.

| HỖ TRỢ, SUPPORT LÀ GÌ? SUPPORTER là gì? Tìm hiểu sâu về Support, Hỗ trợ

Mà trong đó, hầu hết các hoạt động thương mại, kinh doanh mua bán được thực hiện vì bản thân chủ thể thương mại tạo ra được giá trị nào đó cho xã hội. Thông qua quá trình thương mại mà trao đổi giá trị được thực hiện, và xã hội cũng trả lại lợi nhuận cho chủ thể thương mại với giá trị đó.

3, Một vấn đề xã hội là một cơ hội thương mại, cơ hội kinh doanh

Peter Ferdinand Drucker xác nhận: Một vấn đề xã hội là một cơ hội thương mại, cơ hội kinh doanh

Chúng ta biết rằng thương mại bắt nguồn từ việc lấy vật đổi vật trong xã hội xưa, khi quá trình hành vi thương mại trong xã hội hiện đại phức tạp hơn. Để thực sự hiểu được thương mại, chúng ta phải hiểu được nền tảng cơ bản sự tồn tại thương mại, tức là hiểu được bản chất của thương mại. Vậy bản chất của thương mại là gì? Có người nói rằng bản chất của thương mại là hiệu quả; có người nói rằng bản chất của thương mại là thương hiệu; có người nói rằng bản chất của thương mại là đáp ứng bản chất con người; có người nói rằng bản chất của thương mại là tìm thấy nhu cầu, tạo ra giá trị, đáp ứng nhu cầu và thu về lợi nhuận; có người nói rằng bản chất của thương mại là kết nối; có người nói rằng bản chất của thương mại là hệ thống quy tắc xã hội; có người nói rằng bản chất của thương mại là bán cảm xúc và sản phẩm chỉ là thuốc để đáp ứng cảm xúc đó; có người nói rằng bản chất của thương mại kinh doanh là hợp tác lợi ích, các bên cùng có lợi…

Những biểu hiện khác nhau trong sự nhận thức về bản chất của thương mại được đề cập ở trên thực chất là những đặc điểm và thuộc tính của thương mại. Chúng là những quan điểm quan trọng được hình thành bằng cách diễn giải thương mại từ các góc độ khác nhau. Đây là những thành phần tương đối quan trọng của toàn bộ quá trình thương mại.

Nhưng nếu chúng ta phân tích sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả những điều này đều dựa trên tiền đề “trao đổi giá trị”. Bất kể bạn đang làm thương mại hay kinh doanh sản phẩm vật lý, sản phẩm ảo, hàng hóa chỉ có thể tạo ra giá trị thông qua trao đổi và lưu thông. Do đó, phương thức hành vi cốt lõi của thương mại là trao đổi và bản chất của thương mại là trao đổi với nhau để đổi lấy những gì các chủ thể trao đổi cần (lưu ý, chủ thể có thể là cá nhân, quốc gia, doanh nghiệp…).

4, Bản chất của thương mại là: trao đổi giá trị và dựa trên những gì chúng ta cần.

Trên thực tế, một chủ thể thương mại phải có cả hai yếu tố này: thứ nhất, phải có khả năng tạo ra hoặc cung cấp một/nhiều giá trị nhất định; thứ hai, trong quá trình trao đổi giá trị phải tạo ra một khoản chênh lệch, tức là phải có giá trị thặng dư, lợi nhuận kinh doanh trong quá trình trao đổi giá trị. Nếu không cung cấp giá trị, sẽ không có trao đổi giá trị. Về mặt dài hạn, nếu không có giá trị thặng dư trong quá trình trao đổi giá trị, sẽ không thể làm thương mại-kinh doanh lâu dài, sau cùng sẽ gây tổn thất đến nền chủ thể thương mại.

Nắm chắc được bản chất của thương mại, tạo ra giá trị và hiện thực hóa giá trị thặng dư (lợi nhuận) trong trao đổi giá trị, được xem là chìa khóa cho hoạt động thương mại bền vững. Bản chất của thương mại là thực hiện trao đổi giá trị, và trao đổi giá trị này bao gồm cả trao đổi không gian cũng như trao đổi thời gian.

| MÔ HÌNH (MODEL) LÀ GÌ? Tìm hiểu sâu về Mô hình, Model

Trao đổi không gian rất phổ biến và dựa vào năng lực vận chuyển, kho bãi (Logistics), trong khi trao đổi thời gian bao gồm các ngành lĩnh vực như bảo hiểm và cổ phiếu (cổ phiếu cũng liên quan đến trao đổi không gian). Giá trị của hàng hóa không thể đạt được nếu không có trao đổi; do đó, bản thân trao đổi tạo ra giá trị, chứ không chỉ đơn thuần là trao đổi giá trị. (Điều này lý giải vì sao lợi nhuận của mỗi chủ thể thương mại có thể được tạo ra sau mỗi lần trao đổi giá trị).

Xét về góc độ dài hạn, giá trị mà một công ty tạo ra cho xã hội luôn tương đương, tỷ lệ thuận với giá trị mà công ty nhận được. Giá trị doanh nghiệp tạo ra càng lớn và giá trị này càng độc đáo thì lợi nhuận doanh nghiệp nhận được càng lớn. Khi một công ty tạo ra giá trị hạn chế nhưng lại nhận được sự hồi đáp giá trị quá mức, các đối thủ cạnh tranh, khách hàng sẽ bỏ phiếu bằng chân (Foot voting) cùng với sức mạnh của những bên khác sẽ kéo lợi nhuận của công ty trở về mức hợp lý, điều đó chỉ ra nguyên nhân vì sao quy luật thị trường tồn tại.

Giả sử một công ty bán buôn hàng tiêu dùng mua sản phẩm từ các kênh giá thấp (như đại lý hay nhà phân phối chính thức của thương hiệu), rồi bán lại cho các nhà bán buôn hoặc siêu thị khác ở thị trấn, làng mạc với mức giá cao hơn. Biên lợi nhuận của những công ty như vậy từ lâu đã ở mức khoảng 1% đến 5%, trong khi biên lợi nhuận của nhiều chủ sở hữu thương hiệu là 15% hoặc thậm chí cao hơn. Điều này là do giá trị đến từ người bán buôn tạo ra dựa trên sự mất cân bằng giá tại các kênh hoặc khu vực khác nhau. Giá trị tạo ra từ việc bán phá giá hàng hóa bị giới hạn. Chủ sở hữu thương hiệu là những người trong chuỗi cung ứng thực sự đầu tư vào nghiên cứu, phát triển, vận hành thương hiệu và sản xuất sản phẩm, họ thường tạo ra giá trị lớn hơn.

Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho các công ty Internet. Ví dụ, giá trị mà các nền tảng du lịch trực tuyến tạo ra là thu thập và hiển thị thông tin. Nói một cách khách quan, biên lợi nhuận của họ không nên quá cao nếu không cung cấp nhiều dịch vụ có giá trị gia tăng hơn. Vì vậy, chúng ta thấy rằng các hãng hàng không không hài lòng với các đại lý bán vé và ngày càng nhiều hành khách đặt vé thông qua trang web chính thức của hãng hàng không.

5, Việc trao đổi giá trị trong bản chất của thương mại, sẽ trở về với nhu cầu thực.

Cục diện thương mại thế giới đã trải qua những thay đổi lớn và cơ cấu ngành sản xuất cũng bị đảo lộn. Tuy nhiên, trong thời đại Internet ngày nay, sự bình đẳng, minh bạch và chia sẻ thông tin đã làm cho quá trình thương mại-kinh doanh trở nên minh bạch hơn. Thời đại mới không làm thay đổi bản chất của thương mại, mà làm cho hành vi thương mại của chúng ta gần gũi hơn với bản chất thực sự của con người. Nghĩa là, sự trao đổi giá trị trong bản chất kinh doanh đã trở về với bản chất con người, nhu cầu thực.

Trong toàn bộ quá trình của hoạt động thương mại-kinh doanh, doanh nghiệp tạo nên triết lý đôi bên cùng có lợi, tích lũy giá trị thặng dư và đạt được lợi nhuận trên cơ sở là trao đổi giá trị. Trao đổi giá trị là nền tảng, tạo ra quan điểm đôi bên cùng có lợi được xem là chìa khóa, cùng với đó việc đạt được lợi nhuận chính là yếu tố cốt lõi. Năm 2000, Warren Buffett đã nói trong một lá thư gửi các cổ đông rằng, thời gian dài sắp tới, các doanh nghiệp tốt nhất sẽ là những doanh nghiệp có thể sử dụng lượng lớn vốn gia tăng và kiếm lợi nhuận cao trên vốn. Do đó, mọi hoạt động thương mại đều được thực hiện trên cơ sở trao đổi giá trị, đôi bên cùng có lợi mới có thể duy trì sự phát triển hợp tác trong thương mại.

Tuy nhiên, để đạt được quá trình trao đổi giá trị đôi bên cùng có lợi, cả hai bên phải có sự nhận thức nhất quán về giá trị của các mặt hàng trao đổi, tức là trao đổi bình đẳng dựa trên sự nhận thức về giá trị. Nhận thức giá trị là chìa khóa, là yếu tố cốt lõi. Vậy nhận thức giá trị là gì và nó đến từ đâu? Nó xuất phát từ chính giá trị đó hay từ góc nhìn của mỗi người về mọi thứ? Tất cả đều có tác động, nhưng cốt lõi của nhận thức giá trị nằm ở lòng tin. Khi niềm tin của mọi người vào một thứ gì đó xuất phát từ trí tưởng tượng của họ đối với một câu chuyện nào đó, đồng thời trí tưởng tượng tập thể được xác định, giá trị của thứ đó được hình thành. Khi trí tưởng tượng tập thể bị phá vỡ, giá trị đó biến mất.

Trong quá trình hoạt động thương mại – kinh doanh, mọi người sẵn sàng mua sản phẩm của công ty với giá cao vì lòng tin của họ vào công ty. Sự sụp đổ lòng tin vào công ty có thể gây ra khủng hoảng kinh doanh thương mại cho công ty. Nếu chúng ta xem xét tách biệt khỏi mọi khái niệm, lòng tin có thể được coi là giá trị. Nếu bạn muốn tạo ra giá trị, bạn phải xây dựng lòng tin. Lòng tin mang lại sự công nhận, điều này sẽ dẫn đến giao dịch (trao đổi). Vì vậy, điều hành một doanh nghiệp, một mô hình thương mại chính là xây dựng lòng tin. Vì vậy, giá trị thương mại là định hình trí tưởng tượng chung của tập thể nhóm.

BẢN CHẤT của THƯƠNG MẠI LÀ GÌ?

Bản chất của thương mại là trao đổi giá trị và tiêu dùng thực.

Khi nhu cầu tiêu dùng thực tồn tại, thúc đẩy thương mại hình thành. Mọi hoạt động trao đổi hàng hóa vì lợi nhuận sau cùng sẽ dẫn tới sự sụp đổ của thị trường, gây thiệt hại cho doanh nghiệp, cá nhân, quốc gia, điều đó trái ngược với nguyên tắc vì mục đích lợi nhuận của thương mại.

Do vậy bản chất của thương mại là trao đổi giá trị, nhưng gắn liền trực tiếp với nhu cầu và tiêu dùng thực.

1, Câu hỏi của người thầy giáo T

Cách đây không lâu, khi tôi đi cắt tóc tại một cửa tiệm, đã gặp được một thầy giáo T chuyên đào tạo nghề cắt tóc, chúng tôi cùng nhau trò chuyện cho đến khi bàn về một sự bối rối khiến ông ấy phải suy nghĩ. Người thầy cho biết, ông ấy đang tham gia một khóa học đào tạo có liên quan đến thương mại và kinh doanh với tổng chi phí khoảng 20 triệu. Trong lớp học, giảng viên của ông ấy nói đến một trường hợp kinh doanh thương mại:

Trên phố có một quán ăn thịt nướng mới mở, họ đưa ra chương trình khuyến mãi lớn trong dịp khai trương – Thịt nướng miễn phí, nhưng khách hàng không được phép mang theo đồ uống của riêng mình. Sau một tháng mở cửa, họ không hề lỗ, mà đã kiếm được hàng trăm triệu.

Mặc dù thầy giáo T nhận ra tầm quan trọng của đồ uống trong việc thu hồi vốn cũng như gia tăng doanh thu, nhưng ông vẫn cho rằng việc làm của chủ quán thịt nướng có phần quá đáng. Vì vậy, ông ấy kể với tôi về trải nghiệm này như thể đó là điều gì đó mới mẻ, muốn nghe chia sẻ ý kiến ​​của tôi.

2, “Miễn phí” tạo ra nhu cầu

May mắn thay, trước đây tôi đã học kinh tế vi mô nên tôi kể cho ông ấy nghe một trường hợp tôi từng biết, đó là: Một nhà sáng lập đã chia sẻ với tôi rằng, có một người bán đồ ăn nhẹ ở rạp chiếu phim, khách hàng khá dè dặt nên rất khó mở cửa hàng. Tuy nhiên, một số người bán hàng quy mô nhỏ khá thông minh. Họ tặng đậu phộng (hạt Lạc) miễn phí cho mọi người trước. Vì đậu phộng hơi mặn nên đồ uống họ bán ngay sau đó lại dễ bán hơn. Con đường kinh doanh bỗng nhiên được khai mở.

Nhìn chung, việc bán đậu phộng và đồ uống trong cùng một combo hoặc bán đậu phộng và đồ uống riêng lẻ không tốt bằng mô hình kinh doanh thương mại “đậu phộng miễn phí nhưng đồ uống phải trả tiền”. Khi nghe nhà sáng lập nói như vậy, nhất thời tôi chưa đoán định được ông ấy đang nói về mô hình kinh doanh hay sự phi lý của con người. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ lúc đó mình đang nghĩ gì, chắc hẳn mọi người đều biết rằng đậu phộng miễn phí là một “cái bẫy”, nhưng có lẽ sẽ vẫn từ từ rơi vào đó, chi tiền và mua hàng (trong trường hợp thương mại này là đồ uống).

Thịt nướng miễn phí cũng là một cái bẫy, vì thịt nướng thường rất đượm vị, thậm chí cay, mặn, ăn càng nhiều thịt nướng thì càng cần nhiều nước, nên khách hàng luôn có động lực để gọi đồ uống . Hơn nữa, chi phí cho kỹ thuật kinh doanh thương mại này không cao, nên không có gì ngạc nhiên khi cửa hàng thịt nướng có thể kiếm được tiền, ăn nên làm ra bằng cách cho phép miễn phí thịt nướng.

| THÀNH CÔNG, SUCCESS là gì? Bí quyết thành công. Rút cuộc thành công định nghĩa như thế nào

3, “Bài” kinh doanh thương mại phổ biến

Tất nhiên, câu chuyện thịt nướng vẫn chưa thể thỏa mãn đam mê khám phá của người thầy giáo T. Tôi kể cho ông ấy thêm một vài ví dụ kinh điển: Cán dao cạo miễn phí nhưng lưỡi dao cạo phải tính phí, máy in miễn phí nhưng mực phải tính phí, máy ảnh miễn phí nhưng phim phải tính phí và máy lọc nước miễn phí nhưng bộ ống lọc phải tính phí. Những thứ miễn phí đó đích thị là củ cà rốt mà phía sau là một cây gậy, chúng tạo ra nhu cầu mạnh mẽ của bạn đối với sản phẩm.

Khi nói về mô hình thương mại và kinh doanh Dao cạo, tôi trân trọng và ngợi ca King Camp Gillette, “Cha đẻ của Gillette”, vì hiểu được bản chất của thương mại – cho phép khách hàng tiêu dùng nhiều nhất có thể.

Dao cạo mà Gillette bán cho khách hàng có tính chu kỳ. Sau một thời gian sử dụng, dao cạo sẽ bị cùn và cần phải thay lưỡi dao. Ngay cả khi công nghệ cho phép, Gillette có lẽ cũng sẽ không bán cho khách hàng “lưỡi dao cạo không bao giờ cùn”. Đối với một doanh nghiệp, có lẽ là khờ khạo khi bán cho khách hàng những sản phẩm không bao giờ hỏng (PS: bạn có thể bán cho khách hàng những hàng hóa bền, nhưng phải có cách nào đó để sản phẩm sẽ được xoay vần về một vòng tuần hoàn mới vừa hợp pháp và cũng hợp lý).

Tuy nhiên, một số công ty có vẻ rất thiển cận. Họ để khách hàng tiêu thụ nhiều nhất có thể – mua hàng và tích trữ ở nhà, nhưng không cho phép khách hàng tiêu thụ hiệu quả (hoặc thậm chí là kìm hãm mức tiêu thụ của khách hàng) . Cô giáo T hiểu rất rõ sự khác biệt này. Một số tiệm cắt tóc chỉ muốn khách hàng đăng ký thẻ, nhưng họ lại khác. Họ biết cách thường xuyên thúc giục khách hàng đi cắt tóc để họ có thể tiêu tiền nhanh chóng.

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp dường như chưa chú trọng đến tầm nhìn. Họ để khách hàng tiêu thụ nhiều nhất có thể – mua hàng và tích trữ ở nhà, nhưng không cho phép khách hàng tiêu thụ hiệu quả (hoặc thậm chí là kìm hãm sự tiêu thụ của khách hàng) . Người thầy giáo T của tiệm cắt tóc hiểu rất rõ điều này. Một số tiệm cắt tóc chỉ muốn khách hàng đăng ký thẻ, nhưng họ lại khác. Họ biết cách để thường xuyên thúc giục khách hàng đi cắt tóc, làm cho khách hàng tiêu tiền nhanh chóng hơn.

Tôi nói với người thầy T rằng, đối với Procter & Gamble (tập đoàn đã mua lại Gillette vào năm 2005) , công ty có thể tích lũy thu nhập mỗi đêm giống như cách họ tích lũy lãi suất trái phiếu. Lý do là vì râu của khách hàng liên tục mọc dài và luôn cần phải cạo lại râu. Miễn là vẫn còn nhu cầu cạo râu thì vẫn còn hao mòn, điều này sẽ dẫn đến việc phải mua lưỡi dao cạo tiếp theo – giống như trái phiếu trả lãi vậy.

Sau cuộc nói chuyện đó, người thầy giáo T đã hiểu được bản chất của thương mại và kinh doanh trong ngành của mình: những người có thể kiếm tiền thực sự từ họ là những khách hàng nam đến cắt tóc thường xuyên (tóc họ mọc liên tục) , trong khi những khách hàng nữ chỉ thỉnh thoảng đến hoặc thỉnh thoảng không đến thì đó là khách hàng nên được xếp vào phân nhóm khác (độ bám dính thấp và tính không xác định cao), và ngược lại quy tắc trên cũng đúng với khách hàng nữ nếu họ đến tiệm thường xuyên. Ngoài ra, để tạo thêm nhu cầu, họ cần bồi dưỡng thói quen tiêu dùng của khách hàng nam và cắt một số kiểu tóc cần chăm sóc thường xuyên. Khi nói về điều này, thầy T đã tự hào kể với tôi rằng thầy có một khách hàng đến để custom một lần mỗi tuần.

4, Rủi ro thương mại rất lớn, một cái bẫy sâu

Các nhà đầu tư trái phiếu dễ bị mắc kẹt khi theo đuổi lợi suất giảm; trong khi các thương nhân cũng có thể bị rơi vào thế khó khi làm thương mại bằng cách sử dụng yếu tố giá hàng hóa tăng (nghĩa là tận dụng giá hàng hóa tăng để làm thương mại kiếm lời). Nói thế nào nhỉ? Chúng sẽ lấy một ví dụ về cà phê hoặc thảo dược quý để tìm hiểu sâu hơn bản chất của thương mại.

Giai đoạn năm 2023, 2024, 2025, giá cà phê đã tăng trưởng rất mạnh mẽ, tháng sau cao hơn tháng trước, năm sau cao hơn năm trước với biên độ lớn. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê tăng lên, giá tăng mạnh, dẫn tới thực tế nhiều cá nhân, tổ chức tích trữ cà phê.

Đây là thủ thuật làm thương mại và kinh doanh được giới chuyên gia lành nghề đánh giá là không phải con đường tươi sáng:

Một mặt, hoạt động thương mại như vậy dẫn tới trường hợp nhu cầu tích trữ tăng lên, mặt khác, cách làm thương mại kinh doanh như thế cản trở khách hàng tiêu dùng thực, đặc biệt là những sản phẩm có giá trị cao như các loại thảo dược hiếm, gia vị quý – ai sẽ muốn sử dụng những loại hàng hóa có lợi nhuận cao như vậy, nếu không muốn nói là chính khách hàng sẽ mua vào bán đi để kiếm lời? Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn khi khách hàng hoặc các thương nhân ngày càng dùng ít hơn và tích trữ nhiều hơn. Cuối cùng, thủ thuật kinh doanh thương mại dựa vào giá cao để kiếm lời sẽ khiến Mô hình Ponzi xảy ra.

Toàn bộ trò chơi sụp đổ giữa lúc thị trường thịnh vượng và những chủ thể thương mại liên quan cũng trở thành nạn nhân.

Cho nên, đưa hàng hóa vào tay nhà phân phối hoặc khách hàng cũng giống như đưa vào tay mình vậy. Tất cả đều là hàng tồn kho, cuối cùng sẽ gây ra rắc rối lớn. So với việc đưa sản phẩm vào bụng khách hàng thì thủ thuật thương mại với chiêu tận dụng giá cao sẽ kém an toàn hơn nhiều.

Trên thực tế, việc “cuồng” bán thẻ thành viên của những tiệm Spa hay tiệm cắt tóc cũng là một cách tích trữ hàng tồn kho. Hàng hóa được tích trữ nơi khách hàng, dần dần trở thành một trò chơi tài chính. Một lượng lớn thẻ được phát hành và rất nhiều người gia nhập chuỗi cung ứng. Cuối cùng, cách làm buôn bán như vậy trở thành một trò chơi Ponzi và nó rất hỗn loạn.

Do đó, các nhà thương mại và sản xuất bền vững không những không khuyến khích tình trạng đầu cơ, tích trữ mà còn phải giảm giá để ngăn chặn hành vi này, khuyến khích khách hàng thực sự sử dụng sản phẩm thực.

Có rất nhiều sản phẩm/hàng hóa thương mại có thể bị rơi vào cái bẫy kinh doanh như thế, chẳng hạn như thảo dược quý, nguyên liệu thực phẩm có lợi ích tốt vượt trội đối với sức khỏe, thực phẩm chức năng, hàng xa xỉ, cây trồng (như Lan đột biến trước đây từng gây sốt mạnh mẽ).

Nếu các nhà thương mại và sản xuất không thể vượt qua được những cám dỗ, và bị cuốn theo những “cơn lốc” thương mại, cuối cùng sẽ dẫn tới những hệ quả lớn đối với ngành hàng, nền kinh tế và chính bản thân doanh nghiệp thương mại, thương nhân sẽ bị tổn hại.

Bản chất của thương mại, kinh doanh là trao đổi giá trị, tiêu dùng, hàng hóa được khách hàng tích cực sử dụng là hàng hóa tốt, giá trị tăng lên về mặt tài chính là đối thủ của chủ nghĩa tiêu dùng.

5, Điều cốt lõi của nền kinh tế hiện đại, thương mại hiện đại: Sự mất đi mang tính sáng tạo

Ngoài ra, chúng ta cũng nên chú ý đến một dạng tích trữ (tồn kho). Hàng tiêu dùng lâu bền (consumer durable) cũng là một dạng tích trữ (sự tích trữ để dùng trong nhiều năm), tức là tích trữ hàng tồn kho tại nơi của khách hàng. Loại sản phẩm tiêu dùng này có thể được tiêu thụ theo hai cách:

1, Sử dụng và có những hỏng hóc thông thường (khấu hao);

2. Thay thế. Phương pháp tiêu thụ đầu tiên cực kỳ chậm, nhưng phương pháp tiêu thụ thứ hai thì nhanh hơn nhiều, cứ vài năm một lần hoặc thậm chí mỗi năm một lần. Ví dụ như điện thoại Iphone.

Trong nền kinh tế hiện đại, tiêu dùng dựa trên sự đổi mới đặc biệt quan trọng. Một khi sự nâng cấp và cải tiến, đổi mới sản phẩm bị cản trở, tỷ lệ tiêu dùng sẽ bị tác động mạnh mẽ, có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế chậm lại. Bạn có thể so sánh tần suất đổi điện thoại di động của mình cách đây vài năm và tần suất bạn đổi điện thoại gần đây không, nhiều người trong 1 năm có thể đổi 2-3 chiếc điện thoại đời mới hoặc của các thương hiệu và hãng khác, điều đó có lợi ích đối với hoạt động thương mại và nền kinh tế khi tiêu dùng được thúc đẩy.

“Cung có thể tạo Cầu của chính nó” – Nhà kinh tế học, Giáo sư người Pháp – Jean-Baptiste Say

Nếu chúng ta kết hợp lý thuyết của Schumpeter (động) và lý thuyết Say (tĩnh) , câu này có hàm ý khác nhau. Hàng hóa bền vững trong tay người tiêu dùng cần phải được tiêu hao bởi những nguồn cung sáng tạo để hình thành nhu cầu mới . Do đó, mâu thuẫn chính trong tăng trưởng thương mại và kinh tế hiện đại không nằm ở phía cầu mà nằm ở phía cung – chỉ xây dựng đường sá và nhà cửa không thể giải quyết hiệu quả vấn đề tổng cầu: một ngôi nhà mới (sự lặp lại đồng chất ở phía cầu) khó và rất lâu để có thể làm tiêu hao một ngôi nhà mới khác, nhưng một chiếc điện thoại di động mang kiểu dáng đẹp hơn, chức năng mới hơn (nâng cấp ở phía cung) có thể làm tiêu hao, loại bỏ chiếc điện thoại di động cũ (điều này khiến Lương nghĩ đến quy luật về sự cạnh tranh).

Do đó, tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào sự đổi mới và tiêu hao mang tính sáng tạo. Đổi mới là động lực vô tận cho phát triển thương mại và kinh tế (in tiền và xây dựng kim tự tháp thì không hẳn).

6, Lợi nhuận thương mại và kinh doanh đến từ sự phi lí tính (tính phi lí)

Sau khi thảo luận về sự tiêu hao mang tính sáng tạo, chúng ta sẽ đề cập đến một khái niệm gọi là sự phi lí tính (lí trí). Những cuốn sách giáo khoa về thương mại, kinh tế chứa lí trí và giả thiết của con người lí trí. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh thực tế lại bắt nguồn sâu xa từ sự phi lý tính. Khách hàng muốn giữ chặt ví tiền của mình, nhưng các nhà sáng lập và thương nhân lại có thể dùng được nhiều phương pháp khác nhau mà không đề cao sự lí tính (lí trí), để khiến khách hàng phải tiêu tiền nhiều hơn theo cách nào đó.

Cách đây một thời gian, một người bạn đã thảo luận với tôi về ngành nghề nào có lợi nhuận cao nhất? Sau khi tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng để kiếm lợi nhuận, người ta thường dựa vào sự chênh lệch thông tin – như bán sản phẩm chăm sóc sức khỏe, bán những sản phẩm có tính xu hướng hoặc dựa vào Dopamine, những trường hợp kinh doanh thương mại này đều dựa trên sự phi lý tính – lý trí hoàn toàn sẽ loại bỏ khoảng cách thông tin, và lý trí sẽ ức chế việc hấp thụ dopamine .

Trên thực tế, ảnh hưởng của dopamine có ở khắp mọi nơi. Từ khía cạnh mức độ dopamine , dopamine mạnh nhất là một số đã bị pháp luật cấm, tiếp theo là dopamine đến từ sự xuất hiện của nhiều sản phẩm nước ngọt, sản phẩm sức khỏe, quần áo đẹp, v.v. và nhiều lĩnh vực kinh doanh phổ thông. Tất nhiên, có một cơ chế tạo ra dopamine điêu luyện hơn – hàng hóa miễn phí và giảm giá, đây là vấn đề chúng ta đã thảo luận ở phần đầu.

Do đó, ngoài lợi thế độc quyền, nguồn lợi nhuận chính là việc theo đuổi dopamine của cá nhân, tức là sự phi lý tính (lí trí) của họ. So với những giao dịch thương mại như mua quần áo và đồ uống, chúng ta rõ ràng lý trí hơn khi mua dầu, muối, nước sốt và giấm trong siêu thị, đương nhiên thương nhân kiếm được lợi nhuận từ những mặt hàng lí trí này cũng khó khăn hơn (cũng vì sản phẩm dễ bị đồng chất nhau) .

7, Phần kết luận về bản chất của thương mại, kinh doanh

Một cách tổng quát, bản chất thương mại, kinh doanh và nền kinh tế là trao đổi giá trị, Tiêu thụ, tiêu hao, đổi mới, thay thế. Về phía cầu, chúng xuất phát từ nhu cầu sinh tồn của chúng ta hoặc từ việc theo đuổi dopamine; tuy nhiên, về phía cung, sự tiêu hao mang tính sáng tạo có thể tạo ra các phong cách mới hơn và chức năng mới hơn cho các sản phẩm/dịch vụ.

Từ những phân tích về bản chất thương mại trên đây, có lẽ bạn đã biết mình nên chọn mô hình thương mại kinh doanh theo B (doanh nghiệp) hay theo C (người tiêu dùng cuối), hàng hóa có độ bền cao hay hàng hóa có mức độ tiêu hao nhiều, chọn sản phẩm/dịch vụ thương mại mang đậm tính lí trí hay nghiêng về phía phi lí tính.

Về mặt chính sách thương mại và kinh tế vĩ mô, có thể chủ động hướng tới ngăn ngừa thất nghiệp, tạo nhiều việc làm, giảm bớt rủi ro hệ thống, không ngừng thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo, phát triển nhiều động lực kinh tế mới.

Bản chất của thương mại, kinh doanh là trao đổi giá trị và tiêu dùng (yếu tố thực và quan trọng để thúc đẩy việc trao đổi giá trị).

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (International Commerce) LÀ GÌ? Tìm hiểu về Thương mại quốc tế, kinh doanh quốc tế

Thương mại quốc tế (International Commerce) là thương mại vượt qua biên giới quốc gia và liên quan đến việc chuyển dịch quốc tế các nguồn lực và giá trị như hàng hóa , dịch vụ , vốn , công nghệ và thông tin và tất cả các đối tượng trao đổi của thương mại giữa các quốc gia khác nhau . Thương mại quốc tế bao gồm mọi hình thức hoạt động thương mại vượt qua biên giới quốc gia. Đây là thuật ngữ chung cho các hoạt động thương mại và kinh doanh xuyên biên giới, trong đó chủ yếu là thương mại xuất nhập khẩu (ngoại thương), đầu tư quốc tế , và cũng bao gồm hoạt động kinh doanh cho thuê, nhượng quyền thương mại, hợp đồng quản lý,…

Kinh doanh, mua bán trên các sàn thương mại điện tử quốc tế như Amazon, Shopee, Alibaba, Ebay, Etsy… là một trong số những ví dụ điển hình hiện nay về thương mại quốc tế.

Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại hay trao đổi giá trị giữa các chủ thể thương mại ở các quốc gia khác nhau, vì mục đích lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu của các chủ thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Thương mại quốc tế có thể tăng lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận bằng nhiều hình thức khác nhau như: Xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, giao dịch tài chính quốc tế…

Thương mại quốc tế trong tiếng Anh là International Commerce; còn trong tiếng Trung Quốc thì thương mại quốc tế là国际商务 hoặc国际商业.   

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ (Electronic Commerce) LÀ GÌ? Hiểu về thương mại điện tử

Thương mại điện tử (EC) là các hoạt động kinh doanh được thực hiện trên Internet. Thương mại điện tử cũng có bản chất giống như thương mại: đó là tập trung vào Trao đổi hàng hóa (giá trị). Người ta ví thương mại điện tử là cuộc cách mạng thứ hai của mạng máy tính, đó là việc thiết lập một trật tự kinh tế mới thông qua các phương tiện điện tử.

Thương mại điện tử là một phần của thương mại, tập trung nhiều hơn vào hoạt động trao đổi trong không gian mạng. Nhưng thương mại điện tử cũng được hỗ trợ bởi Logistics, bảo hiểm, pháp lý, ngân hàng, giáo dục, văn hóa xã hội…thương mại điện tử có thể diễn ra trong phạm một quốc gia hoặc ngoài quốc gia. Lợi thế của thương mại điện tử là các giao dịch có thể thực hiện phi biên giới nhanh chóng, nhờ vậy giảm bớt nhiều chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Thương mại điện tử trong tiếng Anh là Electronic Commerce (viết tắt EC), trong tiếng Trung Quốc thì Thương mại điện tử là电子商务.

NGÀNH THƯƠNG MẠI LÀ GÌ? Ý nghĩa của ngành thương mại

Ngành thương mại là ngành nghề thương mại mà bản chất là trao đổi giá trị trong nền kinh tế để phân biệt với ngành sản xuất, ngành dịch vụ…trong ngành thương mại sẽ bao gồm hoạt động thương mại, các tổ chức/cá nhân, doanh nghiệp, hay bất kỳ chủ thể nào có liên quan đến hoạt động thương mại nhằm mang đến lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường.

Nếu như ngành sản xuất tập trung vào chế tạo, làm ra sản phẩm/dịch vụ thì ngành thương mại sẽ thực hiện các hoạt động khác nhau để trao đổi hàng hóa làm ra, mục đích là vì lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu thị trường.

Ngành thương mại có ý nghĩa là giúp cho sản phẩm/dịch vụ làm ra có thể lưu thông, không dẫn đến tồn kho, đưa nền kinh tế phát triển hơn.


Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *