Niềm tin là sự Phán đoán, quan điểm hoặc cách nhìn nhận (ý kiến) của chủ thể về điều gì đó được cho là sự thật hoặc sẽ trở thành sự thật. Tức là sự vật đó có thể hoặc đã là sự thật trong góc nhìn, cách đánh giá và sự phán định của chủ thể. Niềm tin có thể thay đổi nhưng thường ổn định, là sự kết hợp nhiều giá trị đến từ kinh nghiệm, kiến thức, nhận thức, tình cảm…

Trong chủ đề chuyên sâu này, Lương sẽ cùng bạn tìm hiểu kỹ lưỡng về Niềm Tin, lòng tin, qua đó chúng ta có thể ứng dụng vào cuộc sống cũng như công việc sáng lập, khởi nghiệp. Nếu bạn có những câu hỏi về Mô hình kinh doanh, khởi nghiệp, bạn có thể gửi inbox về cho Lương theo mục Liên hệ trên thanh Menu của Taytou.
Niềm tin có thể được khai thác trong kinh doanh, khởi nghiệp để thuyết phục khách hàng, đối tác, qua đó phát triển mô hình kinh doanh và sự nghiệp thành công. Niềm tin thường được ứng dụng trong Marketing, đàm phán.
Trong tiếng Anh, NIỀM TIN là FAITH hoặc BELIEF, TRUST (cách dùng có thể khác nhau, những từ này đều có ý nghĩa chỉ định hoặc liên quan đến niềm tin, lòng tin, sự tin tưởng). Niềm tin trong tiếng Trung Quốc là 信念.
- NIỀM TIN, LÒNG TIN, TIN TƯỞNG LÀ GÌ? Định nghĩa, khái niệm về niềm tin
- NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NIỀM TIN, Lòng tin
- NIỀM TIN và sự tin tưởng Dưới góc nhìn, phân tích của Tâm lý học
- NIỀM TIN ĐƯỢC HÌNH THÀNH NHƯ THẾ NÀO (Giải thích dưới góc nhìn Khoa học): Cách tạo ra niềm tin (Nguyên lý tạo nên niềm tin)
- NHỮNG YẾU TỐ (KHÍA CẠNH) ĐỂ TẠO NÊN NIỀM TIN, lòng tin
NIỀM TIN, LÒNG TIN, TIN TƯỞNG LÀ GÌ? Định nghĩa, khái niệm về niềm tin
Niềm tin là khuynh hướng cá tính của một người tin vào tính đúng đắn của một quan điểm nào đó và chi phối hành động của mình. Niềm tin là khuynh hướng tư tưởng có ý thức thúc đẩy một người hành động theo quan điểm, nguyên tắc và thế giới quan của riêng mình. Đó là phương hướng nỗ lực và mục tiêu cố gắng mà một người xác định sau khi cân nhắc kỹ lưỡng trong các hoạt động thực tiễn dài hạn dựa trên những giá trị trong cuộc sống và kiến thức tích lũy của mình.
Niềm tin là sự tin tưởng và xác thực vững chắc của một cá nhân hoặc một nhóm người vào những quan điểm, giá trị hoặc mục tiêu cụ thể. Niềm tin bắt nguồn từ kinh nghiệm, nhận thức và cảm xúc của cá nhân, là nhân tố tinh thần bên trong chỉ đạo hành vi và thái độ.
Niềm tin là cách nghĩ, tư tưởng triết lý, sự phán đoán, quan niệm khó có thể bị lay chuyển của một người về thế giới, cuộc sống, giá trị, v.v., đồng thời cũng là cơ sở quan trọng cho hành vi và quyết định của con người. Niềm tin không chỉ là sự tin tưởng vào tính đúng đắn của một quan điểm nào đó mà còn là sự thống nhất của cảm xúc, nhận thức và ý chí, qua đó chi phối hành động của một người.
Niềm tin là sự thống nhất mang tính liên kết của nhận thức, tình cảm và ý chí trong con người, để từ đó nhìn nhận, phán định sự vật, sự việc là đúng theo góc nhìn của bản thân. Ví dụ niềm tin về sự kiên trì bền bỉ có thể giúp nhà sáng lập khởi nghiệp thành công; nhưng cũng có người tin rằng phải kết hợp sự kiên trì với những điều chỉnh phù hợp theo biến động của thị trường mới có thể thành công trong khởi nghiệp kinh doanh. Chính bởi vậy niềm tin của mỗi người có thể khác nhau.
Bản chất của niềm tin là sự đồng thuận của chủ thể với một sự vật hoặc quan niệm nào đó, thể hiện như là sự xác thực bên trong vượt lên trên những nhận thức đơn thuần.
Tin tưởng là sự tin cậy nhau, dành niềm tin cho một ai đó hoặc sự vật nào đó (ví dụ như tin tưởng vào một học thuyết khoa học, tin tưởng vào tài năng lãnh đạo của một người). Tin tưởng cũng có nghĩa là chỉ sự đáng tin cậy, đáng được tin. Tin tưởng còn được hiểu là sự đúng đắn, chính xác. Niềm tin là yếu tố quan trọng trong sự tin tưởng.
Lòng tin là niềm tin vững chắc và trạng thái tâm lý tích cực của một cá nhân vào khả năng, giá trị hoặc khả năng thành công của bản thân, người khác trong tương lai, hiện tại hoặc quá khứ. Lòng tin không chỉ là cảm giác tin tưởng đơn thuần mà còn là trạng thái tâm lý sâu sắc và tích cực. Nó phản ánh niềm tin vững chắc của một cá nhân rằng lý tưởng, mong muốn hoặc tầm nhìn xa của mình hay của chủ thể khác có thể trở thành hiện thực.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NIỀM TIN, Lòng tin
1, Niềm tin có Tính phức hợp, (sự hợp lại)
Niềm tin là sự thống nhất hay “hợp chất” giữa nhận thức, tình cảm và ý chí của con người. Niềm tin chứa đựng những hiểu biết nhất định. Nếu không có những hiểu biết hoặc khái niệm này, con người sẽ không có gì để tin, và do đó sẽ không có niềm tin.
Nhưng niềm tin không phải là một hiện tượng nhận thức lạnh lùng. Là một nhận thức mà mọi người đồng cảm mạnh mẽ, nó gắn chặt với tình cảm của con người. Niềm tin mạnh mẽ thường đi kèm với những cảm tình mãnh liệt. Cũng chính vì thế mà niềm tin luôn bị cảm xúc chi phối và dẫn tới hành động tương ứng.
Niềm tin không phải là thứ ẩn sâu trong trái tim con người; nó phải luôn được thể hiện ra thông qua hành vi và ý chí thực tế. Được truyền cảm hứng từ niềm tin, ý chí của con người trở nên mạnh mẽ, hành động của họ kiên quyết và không lay chuyển.
2, Niềm tin, sự tin tưởng có đặc điểm của sự ổn định
Niềm tin được hình thành dần dần trong con người trên hành trình trải nghiệm lâu dài của cuộc sống. Niềm tin sẽ tích lũy nhiều năm kinh nghiệm sống của một người và bao gồm ảnh hưởng lâu dài của môi trường xã hội đối với anh ta.
Một khi niềm tin đã hình thành, thì sẽ không dễ dàng thay đổi.
Để một quan điểm tư tưởng nào đó trở thành niềm tin của một người, thì quan điểm đó không chỉ phải được thừa nhận nhiều lần và xác định sâu sắc về mặt trí tuệ, mà còn phải có sự ủng hộ mạnh mẽ về mặt cảm xúc (tình cảm).
Niềm tin có liên quan chặt chẽ đến nhân cách, sự ổn định của niềm tin là biểu hiện của tính đáng tin cậy trong nhân cách. Một người tùy ý thay đổi niềm tin là người có ít nguyên tắc và ít đáng tin cậy. Stalin đã từng nói rằng khăn tay không dễ gì thay thế được, huống hồ là niềm tin của con người. Những lời này vẫn còn truyền cảm hứng cho đến ngày nay.
Tất nhiên, sự ổn định của niềm tin không phải là tuyệt đối. Là một hiện tượng tinh thần, niềm tin là sự phản ánh của thực tế và chúng sẽ không tránh khỏi thay đổi theo những biến đổi của thực tế khách quan .
Sự thay đổi niềm tin không đáng lo ngại. Chỉ cần niềm tin có thể liên tục điều chỉnh và cải thiện bản thân, theo kịp thời đại, chúng có thể nhận được nhiều sự ủng hộ hơn từ thực tế và trở nên sống động hơn, tích cực hơn.
Niềm tin trở nên hoàn thiện và mạnh mẽ hơn khi trải qua sự thay đổi của thực tế.
Những niềm tin cứng nhắc và xa rời thực tế thường là những niềm tin mong manh nhất và không thể chịu được tác động của những thay đổi trong thực tế.
Vì vậy, quá trình củng cố niềm tin của bản thân là quá trình kết hợp với thực tế và thực hành.
| CUNG, CUNG ỨNG, SUPPLY LÀ GÌ? Đi sâu vào tìm hiểu về Cung, cung ứng
3, Niềm tin có tính chấp trước (cố hữu); Kiên định
Sự kiên định không chỉ đề cập đến sự ổn định của niềm tin, mà còn đề cập đến sự ổn định về trạng thái tinh thần và hành vi của những người có niềm tin vững chắc.
Chúng ta không thể xem xét đặc điểm của niềm tin nếu không xét đến những người có niềm tin đó. Khi một người có niềm tin vững chắc, anh ta sẽ cống hiến hết mình cho mục đích mà niềm tin của mình đòi hỏi.
Họ tập trung cao độ về mặt tinh thần và tận tụy với sự nghiệp mà họ tin tưởng và theo đuổi. Họ đam mê sự nghiệp của mình và kiên định, nhất quán trong hành động. Có thể nói đây chính là thái độ đúng đắn đối với sự nghiệp và cuộc sống.
Chỉ khi bạn dấn thân sâu vào cuộc sống thì cuộc sống mới chấp nhận bạn. Chỉ khi bạn nỗ lực hết mình cho sự nghiệp thì thành công mới đến với bạn. Tất nhiên, sự kiên định trong niềm tin không có nghĩa là sự cuồng tín về niềm tin và mất đi lý trí thường thức, mà là duy trì các mối quan hệ xã hội tương đối rộng rãi, lắng nghe tiếng nói của thực tế và duy trì khả năng phán đoán đúng sai.
Ngoài ra, sự kiên định trong niềm tin là sự kiên định của con người trong nền tảng của cuộc sống và các hoạt động xã hội , hơn là trong danh tiếng hay tài sản cá nhân. Trên thực tế, khi một người cam kết với niềm tin và lý tưởng sống của mình, người đó sẽ vượt qua danh tiếng cũng như tài sản cá nhân, họ trở thành một người có tư tưởng rộng mở, tự do về mặt tinh thần.
4, Niềm tin có đặc điểm của sự Đa dạng
Niềm tin và lý tưởng có mối liên hệ chặt chẽ.
Lý tưởng đa dạng thì niềm tin cũng đa dạng. Mỗi người sẽ hình thành niềm tin khác nhau do sự khác biệt về môi trường phát triển và tính cách. Ngay cả cùng một người cũng sẽ hình thành nhiều niềm tin về các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội , chẳng hạn như con đường dẫn dắt đất nước của lãnh đạo, kinh tế, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, nghề nghiệp, học tập, cuộc sống, v.v.
Trước sự đa dạng của niềm tin, một mặt, chúng ta phải thừa nhận rằng đây là hiện tượng bình thường, không ràng buộc niềm tin phải là duy nhất; mặt khác, chúng ta phải thấy rằng trong cùng một xã hội, niềm tin của mọi người có những điểm tương đồng, do đó hình thành nên niềm tin chung, và niềm tin khác nhau của cùng một người thường có mối liên hệ nội tại, do đó hình thành nên hệ thống niềm tin, văn hóa.
Nếu nhiều niềm tin của một người mâu thuẫn với nhau và không thể tạo thành một tổng thể hài hòa, thì người đó sẽ bối rối và không biết phải lựa chọn hành vi của mình như thế nào.
Trên thực tế, niềm tin của một người có nhiều mức độ và quy mô khác nhau, một số ở mức cao nhất, một số ở mức trung bình và một số ở mức thấp nhất.
Mỗi loại niềm như vậy giữ một vị trí riêng, tạo thành một hệ thống niềm tin có trật tự . Trong đó, niềm tin cấp cao quyết định niềm tin cấp thấp, và niềm tin cấp thấp chịu sự chi phối của niềm tin cấp cao.
Hệ thống niềm tin này thường rất ổn định, chính là lòng tin của con người vào phong tục, văn hóa truyền thống, tồn tại rất lâu qua hàng trăm, hàng ngàn năm. Ví dụ như người Việt Nam có niềm tin đối với các vị Vua hùng có công tạo dựng đất nước, vì vậy ngày 10/3 âm lịch của nước ta, Việt Nam thường tổ chức lễ kỷ niệm để tưởng nhớ các Vua Hùng, minh chứng cho một hệ thống niềm tin ổn định.
NIỀM TIN và sự tin tưởng Dưới góc nhìn, phân tích của Tâm lý học
Các nhà khoa học sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu cách não bộ ảnh hưởng đến hành vi và niềm tin .
Niềm tin có thể khiến con người làm những điều kỳ lạ nhất. Một mặt, niềm tin cung cấp một hệ thống kết cấu về đạo đức, hình thành các giá trị cá nhân và được sử dụng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các cá nhân ;
Mặt khác, niềm tin cũng có thể mang tính phá vỡ, hình thành nên những định kiến khiến một số người tự ảnh hưởng lên chính mình hoặc người khác dẫn đến sự cuồng tín hay thiên kiến nhận thức dưới một số tên gọi nhất định (đây là khía cạnh tiêu cực của niềm tin, và cần được tỉnh táo nhìn nhận khi đối diện các vấn đề, sự việc trong kinh doanh, công việc hay cuộc sống).
Peter Holligan, một nhà tâm lý học phương Tây, cho rằng Niềm tin từng là phần mạnh mẽ và bị bỏ qua nhiều nhất của nền văn minh nhân loại. Thật không may, một số khía cạnh tốt đẹp nhất của niềm tin sau này đã bị các tổ chức hoặc cá nhân tranh thủ tận dụng và kiếm lời.
Ngày nay, các nhà triết học không còn độc quyền trong lĩnh vực về niềm nữa. Niềm tin đã nhanh chóng trở thành chủ đề nghiên cứu của nhiều nhà tâm lý học và nhà khoa học thần kinh. Mục tiêu của họ là tạo ra một mô hình thần kinh để: giải thích cách hình thành niềm tin, cách chúng ảnh hưởng đến con người và điều gì thúc đẩy niềm tin được hình thành- phát triển.
1, Mối quan hệ giữa niềm tin và thể chất con người
Matthew Lieberman, một nhà tâm lý học tại Đại học California, gần đây đã chỉ ra rằng niềm tin vô thức giúp não bộ con người phân loại khác nhau để nhận biết giữa điều “tốt” và “xấu”.
Ông tin rằng niềm tin (bao gồm cả định kiến hoặc nỗi sợ) có nhiều khả năng được học từ văn hóa chủ lưu (Mainstream).
Khi Lieberman cho mọi người xem một loạt ảnh chụp những khuôn mặt đen không chứa biểu cảm, ông ngạc nhiên khi thấy rằng hạch hạnh nhân – nút hoảng của não – đã được kích hoạt trong gần hai phần ba các trường hợp. Hạch hạnh nhân chịu trách nhiệm về sức đề kháng và phản ứng khẩn cấp của cơ thể. Nó chuẩn bị cho cơ thể trước nguy hiểm và nhanh chóng hình thành một loạt các phản ứng sinh lý trước khi não nhận thức được mối nguy.
Nghiên cứu mới nhất của Lieberman phần nào xác nhận nghiên cứu trước đó của Joe Winston thuộc Khoa Thần kinh Hình ảnh Wellcome tại Đại học London. Winston phát hiện rằng khi ông cho mọi người xem ảnh khuôn mặt và yêu cầu họ đánh giá mức độ tin cậy của từng bức ảnh, hạch hạnh nhân phản ứng mạnh hơn với những bức ảnh rõ ràng được chọn là “không đáng tin cậy”. Đây là phản ứng bẩm sinh không bị ảnh hưởng bởi bình luận đánh giá của người khác.
Ralph Adolph, một nhà thần kinh học tại Đại học bang Iowa, cũng phát hiện ra rằng nếu hạch hạnh nhân bị tổn thương, khả năng nhận diện biểu hiện nỗi sợ của cơ thể sẽ bị suy giảm. Nghiên cứu riêng biệt của Adolf và Simon Cohen tại Đại học Cambridge cho thấy tổn thương ở hạch hạnh nhân có tác động tiêu cực lớn đến khả năng nhận biết cảm xúc xã hội của não , trong khi dường như có ít tác động đến hầu hết các cảm xúc cơ bản.
Nghiên cứu về hạch hạnh nhân cho thấy hạch hạnh nhân là một phần quan trọng của quá trình đánh giá mối nguy trong khi hình thành niềm tin. Khi hệ thống báo động này bị lỗi, cá nhân sẽ không thể đưa ra nhiều phán đoán trong những tình huống nguy cơ, có thể làm tổn thương chúng ta. Trong thời đại có nhiều biến động cả về môi trường tự nhiên và xã hội con người, niềm tin là nền tảng cho sự sống của con người.
| HỖ TRỢ, SUPPORT LÀ GÌ? SUPPORTER là gì? Tìm hiểu về Hỗ trợ trong nhiều lĩnh vực
2, Mối quan hệ giữa niềm tin – lòng tin và cuộc sống hàng ngày
“Ở phương Tây, nhu cầu vật chất của chúng ta được đáp ứng. Chúng ta đang tận hưởng một nền văn minh vật chất ở mức độ chưa từng có. Điều này giúp chúng ta có nhiều thời gian và không gian để suy nghĩ”, Kathryn Taylor, một nhà khoa học thần kinh tại Đại học Oxford cho biết.
“Niềm tin và quan niệm do đó đã trở thành bản sắc của chúng ta. Xã hội không còn chỉ là vấn đề sinh tồn đơn lẻ nữa, mà niềm tin đã xem trọng sự lựa chọn người đồng hành, và phân biệt giữa quan niệm với cá tính”. Do đó, các nhà khoa học tin rằng “việc nghiên cứu về niềm tin là một tiến bộ thực sự thú vị đối với xã hội, một tiến bộ rất rõ ràng”.
Ngay cả những người ít quan tâm đến kiến thức sâu rộng, họ cũng chú ý đến sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người. Do đó, việc hiểu được niềm tin của nhau là đặc biệt quan trọng, đặc biệt là trong kinh doanh, kinh tế và lối sống hàng ngày.
Lấy cuộc trò chuyện giữa hai người làm ví dụ. Trong khi một người đang nói, não của người kia sẽ nhanh chóng sắp xếp thông tin nhận được thông qua hệ thống thính giác. Ở thời điểm này, niềm tin của người nghe đóng vai trò như một bộ lọc cho luồng nhận thức và hướng dẫn phản ứng của não.
Niềm tin có tính ổn định. Khi một cảm giác hoặc thông tin mới đi vào não, não sẽ quyết định có nên tích hợp nó với hệ thống kiến thức hiện có hay không. Trước đó, kiến thức mới thường có xu hướng bị phủ nhận. Mọi người thường phản ứng theo cách này khi họ muốn kiểm tra độ tin cậy của một ai đó (ví dụ người ứng cử tổng thống, hoặc người được đưa lên làm lãnh đạo-quản lý trong doanh nghiệp) hoặc nghe về một sự kiện bất thường.
3, Mối quan hệ giữa niềm tin, trí nhớ và não bộ con người
Vậy, niềm tin tồn tại như thế nào trong não? Nhà khoa học về thần kinh – Taylor cho biết: “Cá nhân tôi nghĩ rằng niềm tin rất giống với ký ức”. Ký ức là những dấu vết để lại trong não bởi các mạng lưới thần kinh được tác động từ những sự kiện. Mạng lưới nơ-ron thần kinh càng được sử dụng nhiều thì nó càng được tác động và trí nhớ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Holligan cho biết niềm tin mạnh mẽ hơn trí nhớ. “Niềm tin là những kiến trúc tinh thần mà chúng ta sử dụng để diễn giải thế giới. Có nhiều thứ sẽ xảy ra rất nhanh chóng (như tri giác), nhưng chúng ta có những nhận thức cố định về ‘bạn của tôi là người như thế nào?’ Nếu không có quá trình này, làm sao chúng ta biết mình là ai mỗi khi thức dậy sau giấc ngủ?”
Các nhà khoa học thần kinh từ lâu đã quan sát những bộ não bị rối loạn chức năng để hiểu cách thức hoạt động của những bộ não khỏe mạnh. Mặc dù hướng nghiên cứu của họ khác nhau, nhưng các nhà khoa học đều làm cùng một việc khi nghiên cứu về sự hình thành niềm tin. “Đối với những người bị ảo giác, thì ảo giác có thể bị coi đó là những niềm tin chưa đúng ở khía cạnh nhất định nào đó, nhưng vẫn mang cấu trúc của một niềm tin”, Holligan nói.
Ví dụ, những người mắc chứng prosopagnosia bị tổn thương một số phần não khiến họ không thể nhận diện khuôn mặt; có những ảo giác Cotard, khi đó mọi người cảm thấy họ không còn tồn tại nữa hoặc chỉ là những cái vỏ rỗng, họ tin rằng những người khác và thậm chí cả thế giới, bao gồm cả nhà cửa và cây cối, không còn tồn tại nữa; ảo giác Flegrei, trong đó người mắc chứng này tin rằng họ đã bị thay thế bởi những người khác; và ảo giác Kableglass, một tình trạng khá hiếm gặp nhưng đầy màu sắc, họ thường tỉnh táo nhưng tin rằng những người mà họ rất gần gũi về mặt tình cảm, chẳng hạn như cha mẹ, con cái, vợ/chồng, anh em, v.v., là những người mạo danh.
Khi nghiên cứu sâu hơn cho thấy, lấy trường hợp “ảo giác Kebgrass” làm ví dụ, hầu hết bệnh nhân đều bị tổn thương não, và đó là tổn thương não phải điển hình. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người bị tổn thương não này vẫn duy trì niềm tin đối với văn hóa đức tin hay hướng đi của đất nước được lãnh đạo bởi một đảng mà họ tin. Điều này rất thú vị vì bất kể họ tin vào điều gì trước khi mắc các chứng tổn thương não như vậy, họ vẫn giữ niềm tin của mình trong ký ức sau khi mắc những hội chứng đó. “
4, Sự ảnh hưởng của áp lực xã hội lên niềm tin, lòng tin
Một cách khác để hiểu cách hình thành niềm tin là xem cách niềm tin bị chi phối. Trong một cuốn sách về Tâm lý học của Kathleen Taylor, Taylor mô tả việc thay đổi niềm tin khó khăn như thế nào.
BƯỚC ĐẦU TIÊN là cách ly cá nhân (ngụ ý chỉ sự tách riêng với các mối quan hệ) và kiểm soát thông tin mà họ nhận được. Thử thách niềm tin ban đầu của họ bằng cách tạo ra sự không chắc chắn (nếu bạn đã đọc và tìm hiểu tới đây, thì bạn đang nắm bắt được một kỹ thuật tạo dựng niềm tin, nhưng Lương mong bạn sẽ sử dụng kỹ thuật này cho những mục đích tích cực. Nếu bạn muốn kết nối với Lương, bạn có thể gửi inbox về cho Lương trong phần Liên hệ trên thanh Menu của Taytou).Thông tin mới cần được lặp lại liên tục. Và tất cả những điều này cần được thực hiện trong một môi trường áp lực cao, giàu cảm xúc.
Taylor cho biết: “Niềm tin là những đối tượng tâm lý được đưa vào não. Nếu bạn thử thách cơ chế ấy bằng một niềm tin trái ngược, hoặc chỉ cần tách nó ra khỏi nhân tố tác động (ý chỉ yếu tố hình thành niềm tin mới), thì niềm tin đó sẽ trở nên lỏng lẻo hơn một chút. Nếu đi kèm với tác động mạnh mẽ của niềm tin mới thì niềm tin ban đầu có thể được chuyển hóa thành một niềm tin mới. Cơ chế mà Taylor mô tả tương tự như cách não bình thường tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành niềm tin, những niềm tin mới được tạo nên bởi một phiên bản được củng cố cao độ trong quá trình này. Quá trình xử lý niềm tin như vậy diễn ra hàng ngày. Các quan điểm và động thái trong lãnh đạo đất nước của một tổng thống là một trường hợp điểm hình mà ở đó niềm tin liên tục được thử thách, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội có những mối quan tâm căng thẳng lớn.
Nhà khoa học Taylor cho biết: “Căng thẳng ảnh hưởng đến não khiến mọi người sẵn sàng quay lại với những cách làm quen thuộc—tức là tuân theo thói quen và áp dụng những cách suy nghĩ đơn giản”.
“Thật dễ dàng để làm điều đó khi mọi thứ bạn có đều bị thử thách. Ví dụ, chúng ta đã từng rất tin tưởng vào một người trong tổ chức, nhưng có nhiều thông tin truyền miệng rằng họ là người đã gây ra những tổn thất cho bạn về tài chính, sự nghiệp đúng lúc bạn đang gặp nhiều căng thẳng, áp lực, niềm tin của bạn về người đồng hành ấy trong tổ chức ắt hẳn sẽ bị tác động.
Phương pháp liên tưởng này sử dụng não bộ. Nếu một thứ (sự vật) tác động hai nhóm tế bào thần kinh, kết nối giữa chúng sẽ được tăng cường. Khi một nhóm bị tác động, rất có thể hệ thống thứ hai cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ngay cả khi hai ký ức gần như không có kết nối nào trong thế giới thực, chúng vẫn được kết nối trong não.
Nếu bạn đã từng thấy 2 người bạn rất thân thiết với nhau, nhưng một ngày họ xa cách, không đồng hành cùng nhau nữa. Thì có thể một sự vật tác động đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của họ về nhau. Holligan cho biết niềm tin có thể thúc đẩy mọi người làm những việc đã được lên kế hoạch trước, ngay cả khi họ biết mình sẽ không còn trách nhiệm, nghĩa vụ. Điều đó lý giải vì sao, rất nhiều nhà khoa học, nhà giáo, doanh nhân dù đã đến tuổi nghỉ hưu, nhưng họ vẫn cống hiến cho xã hội, cộng đồng.
NIỀM TIN ĐƯỢC HÌNH THÀNH NHƯ THẾ NÀO (Giải thích dưới góc nhìn Khoa học): Cách tạo ra niềm tin (Nguyên lý tạo nên niềm tin)
Niềm tin là những giả thiết chủ quan có khả năng về những thông tin môi trường mà đối tượng tiếp (ý nghĩa của cụm từ “có khả năng” trong trường hợp này cho rằng đó có thể là sự thật hoặc khả năng là sự thật dựa trên góc nhìn chủ quan của chủ thể. Điều này lý giải vì sao rất nhiều nhà đầu tư có thể tin tưởng vào một vị chủ tịch hội đồng quản trị và giải ngân góp vốn, nhưng cũng có những người không tin tưởng vì nhiều rủi ro nhất định).
Chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu về sự hình thành của niềm tin qua việc chia niềm tin thành 3 nhóm:
- Niềm tin kinh nghiệm ,
- niềm tin quan hệ
- niềm tin khái niệm.
Niềm tin cũng có liên quan chặt chẽ đến dopamine , chúng ta sẽ thảo luận sau.
1, Ba loại niềm tin, lòng tin
a, Niềm tin kinh nghiệm (trải nghiệm)
Niềm tin trải nghiệm (kinh nghiệm) là niềm tin tương đối tức thời về các đối tượng khách quan được hình thành khi một người lần đầu tiên tiếp xúc với một đối tượng cụ thể bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ngôn ngữ.
Ví dụ, trong câu chuyện về những thầy bói xem con voi, người chạm vào ngà voi có thể tin rằng đó là củ cà rốt dựa trên cảm nhận xúc giác của mình về vật thể đó; người chạm vào tai voi tin rằng đó là giỏ sàng; và người chạm vào lưng voi tin rằng đó là giường. Đây là cách mọi người khám phá xúc giác, dần dần phát triển nhận thức về các đối tượng vật thể, như hình học, trọng lượng, tính chất bề mặt và công dụng thực tế…từ đó hình thành niềm tin đối với các vật thể-sự vật này.
b, Niềm tin quan hệ
Niềm tin quan hệ, cũng là niềm tin tương đối tức thời nhưng dựa trên sự kiện, được hình thành khi đánh giá mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. Ví dụ, khi con người nguyên thủy lần đầu tình cờ phát hiện ra rằng thức ăn nướng trên lửa có vị rất ngon, họ dần hình thành niềm tin rằng “lửa” có thể được sử dụng như một “công cụ” để chế biến thức ăn.
Nói cách khác, chủ thể phát triển niềm tin rằng đồ vật là một công cụ có lợi cho mình. Tất nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, niềm tin về mối quan hệ này không còn chỉ giới hạn trong môi trường tự nhiên nữa mà đã phát triển thành môi trường xã hội, từ đó nảy sinh niềm tin giữa các cá nhân (một số học giả cho rằng “tình yêu” cũng nên được xếp vào phạm trù này, đây là niềm tin sâu sắc vào sự tin tưởng giữa các cá nhân).
c, Niềm tin khái niệm
Niềm tin khái niệm là quá trình xử lý trừu tượng gắn liền với ngôn ngữ liên quan đến các sự kiện chỉ có ở con người, bao gồm chuỗi tín hiệu cảm giác như âm nhạc và thông tin dựa trên ngôn ngữ.
Ví dụ, con người thường kể những câu chuyện về quá khứ, nguồn gốc, mục tiêu của mình và người khác, cũng như những gì sẽ xảy ra sau khi qua đời. Những câu chuyện này được ông bà, cha mẹ, anh chị em và các thành viên khác trong gia đình kể đi kể lại, thậm chí được mô tả trong sách hoặc các phương tiện truyền thông khác, cuối cùng xây dựng nên một kho tàng khái niệm rộng lớn về đời sống văn hóa (bao gồm các khái niệm về xã hội, văn hóa, sinh thái, bản sắc, chuẩn mực, v.v.).
2, Biểu hiện của niềm tin trong não
Như đã giới thiệu về 3 loại niềm tin ở trên, các đối tượng liên quan đến ba niềm tin này là khác nhau, do đó các vùng vỏ não đại diện cho các niềm tin khác nhau cũng sẽ khác nhau. (Tất nhiên, chúng ta biết rằng ý thức không chỉ giới hạn ở một vùng não nhất định mà là trạng thái thể hiện thần kinh ở phạm vi rộng hơn.)
Nhưng nhìn chung, các biểu tượng đặc trưng của thần kinh cung cấp niềm tin có thể liên quan chặt chẽ hơn đến vỏ não đỉnh . Thùy đỉnh nằm gần nơi chứa các biểu tượng thần kinh của những chức năng điều hành, nhận thức và khái niệm bậc cao. Với các kết nối qua lại giữa vỏ não-vỏ não và giữa vỏ não-dưới vỏ não, vỏ não đỉnh là vùng tích hợp siêu mô thức. Nó liên quan đến việc lập bản đồ phản ứng thần kinh với thông tin nhận thức, thời gian, xã hội và khái niệm.
Ngoài ra, vỏ não trán giữa lưng cũng được coi là vùng não cấp cao hơn có thể liên quan chặt chẽ đến việc hình thành niềm tin.
3, Củng cố – làm mới niềm tin và Dopamine
Tất nhiên, niềm tin không phải là bất biến. Như chúng ta đã nói ở phần trước, “niềm tin là những giả thiết chủ quan có khả năng về thông tin môi trường mà đối tượng tiếp xúc.” Vì nó được gọi là giả thiết khả năng mang tính chủ quan, chúng ta sẽ bàn về bản chất dự liệu (dự đoán) của niềm tin.
Chúng ta đã lấy ví dụ về “thầy bói mù và con voi”, đây là niềm tin thực nghiệm dễ hiểu nhất trong các niềm tin. Khi một người lần đầu chạm vào chân con voi, ông ta có thể nghĩ đó là cột đình, nhưng sự tích lũy bằng chứng trong lý luận chủ quan dẫn tới dự đoán không chính xác về kết quả, nghĩa là, khi chạm vào ngày càng nhiều hơn vào các vùng của con voi, người thầy bói có thể xây dựng một hình ảnh đại diện mới về vật thể, đảo ngược niềm tin trước đó của ông ta rằng đó là “cột đình”.
Vậy những thay đổi nào sẽ xảy ra trong não bộ trên hành trình lật đổ những niềm tin cũ và thiết lập những niềm tin mới?
Các thí nghiệm về củng cố niềm tin (chẳng hạn như tiết lộ một kết quả đáng ngạc nhiên cho người tham gia liên quan), cho thấy rằng trong quá trình sửa đổi và củng cố lại niềm tin, hai vùng não hoạt động mạnh hơn ( vân não bụng và não giữa ).
Hơn nữa, các thí nghiệm sử dụng các “mức độ bất ngờ” khác nhau (có nghĩa cường độ củng cố niềm tin là khác nhau; mức độ bất ngờ càng lớn, mức độ củng cố niềm tin càng lớn) cũng phát hiện ra rằng mức độ củng cố niềm tin càng lớn thì hoạt động giải phóng dopamine ở những vùng này càng nhỏ, Nói cách khác, việc mã hóa niềm tin mới dường như có mối tương quan ngược chiều với khả năng giải phóng dopamine của não giữa và thể vân.
Mặc dù không có bằng chứng thực nghiệm nào khác, nhưng có thể suy đoán hợp lý rằng, các niềm tin khác nhau giống như mức cực tiểu cục bộ mà mạng lưới thần kinh đạt được trong các điều kiện hiện tại. Để thoát khỏi mức cực tiểu cục bộ này cần có sự tác động bên ngoài (cho thấy toàn bộ con voi).
Ở cấp độ thần kinh học phân tử, để nhảy ra khỏi mức tối thiểu cục bộ hiện tại và hình thành mức tối thiểu cục bộ mới, có thể cần phải thực hiện một số thay đổi nhất định đối với các kết nối trong mạng lưới thần kinh. Trong quá trình này, dopamine và các yếu tố khác có thể có mối quan hệ thuận chiều với việc củng cố niềm tin.
Điều này cho thấy dopamine có chức năng rộng hơn, thậm chí có thể mở rộng sang việc cập nhật các mô hình liên kết mang tính dự báo trên thế giới.
4, Niềm tin và sự tiến hóa của não bộ
Niềm tin có mối quan hệ với sự tiến hóa của não bộ
Dựa trên lý thuyết tâm trí ToM , một số nhà nghiên cứu tin rằng các quá trình thần kinh mà qua đó chúng ta hình thành và duy trì niềm tin trong môi trường xã hội ngày càng phức tạp, đòi hỏi nhiều nguồn lực xử lý hơn trong não. Nhu cầu xử lý nâng cao này có thể đã thúc đẩy sự mở rộng phát triển của vỏ não đỉnh và trán, vì các vỏ não này là những vùng vỏ não quan trọng trong các mạch não cung cấp khả năng xử lý thông tin siêu mô thức tích hợp.
Họ tin rằng niềm tin có thể là một trong những lý do tại sao thùy đỉnh và thùy trán tiếp tục phát triển lớn hơn trong quá trình tiến hóa của con người.
NHỮNG YẾU TỐ (KHÍA CẠNH) ĐỂ TẠO NÊN NIỀM TIN, lòng tin
Sự hình thành “niềm tin” của con người là một quá trình phức tạp và đa dạng liên quan đến nhiều yếu tố. Sau đây là lời giải thích chi tiết về những khía cạnh chính của việc hình thành niềm tin:
1, Kinh nghiệm
Kinh nghiệm cá nhân :
Kinh nghiệm cá nhân là yếu tố quan trọng để hình thành niềm tin. Ví dụ, nếu một người bị bỏng do lửa, anh ta sẽ hình thành niềm tin rằng “lửa có thể làm con người bị thương”. Loại trải nghiệm cá nhân này thường mang tính trực quan và sâu sắc, có thể trực tiếp định hình hệ thống niềm tin của một người.
Quan sát kinh nghiệm của người khác :
Ngoài kinh nghiệm cá nhân, con người cũng có thể hình thành niềm tin bằng cách quan sát kinh nghiệm của người khác. Ví dụ, việc nhìn thấy các bạn cùng lớp bị phạt vì nghịch quá nhiều trong lớp có thể khiến mọi người hình thành niềm tin rằng, một số hành vi nhất định không nên xảy ra trong lớp học. Quá trình quan sát này giúp mọi người học hỏi từ kinh nghiệm của người khác và hình thành niềm tin của riêng mình.
2, Bối cảnh xã hội và văn hóa
Bối cảnh, Môi trường phát triển :
Đất nước và văn hóa xã hội nơi con người lớn lên có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành niềm tin. Nền tảng xã hội và văn hóa khác nhau hình thành nên hệ thống giá trị và niềm tin khác nhau của con người. Ví dụ, ở một số nền văn hóa, sự tôn trọng người lớn tuổi và tiếng nói của họ được coi là giá trị quan trọng, trong khi ở những nền văn hóa khác, sự tự do và độc lập cá nhân có thể được coi trọng hơn.
Những yếu tố được giáo dục :
Giáo dục cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc hình thành niềm tin. Các tổ chức giáo dục như trường học, gia đình và xã hội định hình hệ thống niềm tin của con người bằng cách truyền đạt kiến thức, giá trị và chuẩn mực đạo đức. Những trải nghiệm giáo dục này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của mọi người mà còn có tác động sâu sắc đến niềm tin và giá trị của họ.
3, Truyền đạt của những người được tin cậy
Truyền đạt thông qua ngôn ngữ :
Cha mẹ, người lớn tuổi, giáo viên, v.v. sẽ truyền đạt nhiều niềm tin cho trẻ em trong quá trình trưởng thành của chúng. Những niềm tin này thường được truyền đạt thông qua ngôn ngữ trực tiếp, chẳng hạn như “điều quan trọng nhất đối với một người thành công là giữ được Đức hạnh tốt đẹp”. Những niềm tin này đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của chúng ta, ảnh hưởng lên hành vi.
Truyền đạt thông qua hành vi :
Ngoài lời nói, thì hành vi của những người đáng tin cậy cũng có thể có tác động quan trọng đến niềm tin của mọi người. Ví dụ, Một người anh đã khởi nghiệp thành công, và họ đã làm theo Phương pháp dựa vào việc bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều đó sẽ tạo ra niềm tin cho những người em đi sau học hỏi và làm theo để hướng tới thành công.; cách cha mẹ đối ứng với người khác và cách họ giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày sẽ trở thành tài liệu tham khảo quan trọng để trẻ hình thành niềm tin của mình.
4, Tự đánh giá và tổng kết tạo nên lòng tin, niềm tin
Tự phản ánh :
Mọi người sẽ tự đánh giá và suy nghĩ về bản thân khi đối mặt với nhiều tình huống hay các vấn đề khác nhau. Quá trình suy nghĩ này giúp con người rút ra niềm tin và giá trị từ chính trải nghiệm của mình. Ví dụ, một người có thể sẽ suy nghĩ về việc ai đó liên tục từ chối ý định tốt của mình và kết luận rằng đó là vì: người kia ghen tị với việc mình được thăng chức nhanh hơn. Quá trình tự đánh giá này giúp mọi người phát triển hệ thống niềm tin sâu sắc và phức tạp hơn.
Sự tổng kết và khái quát :
Con người tích lũy kinh nghiệm, kiến thức trong cuộc sống hàng ngày để từ đó hình thành niềm tin mới thông qua việc tổng kết và khái quát. Quá trình tổng kết, khái quát này không chỉ giúp con người hiểu rõ hơn về thế giới hoặc cách giải quyết vấn đề mà còn giúp họ hình thành hệ thống niềm tin toàn diện và có quy luật, quy tắc.
Ngoài những yếu tố chính trên hình thành niềm tin, còn những yếu tố khác sẽ được Lương và đội ngũ phân tích đưa vào trong các đợt chia sẻ khác để bạn cũng như các nhà sáng lập cùng tìm hiểu.
Nếu bạn có những câu hỏi về mô hình kinh doanh, khởi nghiệp, bạn có thể gửi inbox về cho Lương theo mục Liên hệ trên thanh Menu của Taytou.
Để lại một bình luận